Nghe tiếng quen, tôi quay lại. Và nhận ra chị, quần bà ba
đen, áo sơ mi màu cháo lòng bên trong, ngoài khoác cái áo lính rằn ri. Chị ôm lấy
tôi, khóc như trẻ con. Nguôi ngoai, chị lại dẫn tôi về nhà, cho ăn uống. Các
cháu đã lớn, biết giúp mẹ việc nhà. Cuộc sống cuối những năm bảy mươi thế kỷ
trước khó khăn, chị siêng làm lụng, đầu tắt mặt tối, nên anh chị không gặp nhau
nữa. Cũng như những người quen biết khác thời đó, trước đây thân thiết, cùng
nhau học một trường, đi một đường, từng bao dịp chuyện trò vui chơi đàn hát, mộng
lớn mộng con, văn chương văn chiếc, giúp đời giúp điếc, nay có khi đi qua trước
cửa nhà nhau mà không buồn ghé lại, không nỡ nhìn nhau trong cảnh cơ hàn.
NGÀY ẤY CHỊ NHƯ HOA SEN
NGUYỄN ĐỨC TÙNG
Tháng Ba về Huế qua thành nội gặp mùa sen nở bát ngát, nhớ một
bài hát cũ và nhớ chị, tôi đi tìm, nhưng căn nhà nhỏ của mẹ con chị đã đổi chủ,
không ai biết họ về đâu.
Chị hay mặc áo dài màu hồng cánh sen. Nhà cha mẹ chị trước
đây mái ngói rêu phong cổ kính, thơm mùi hoa trái, có chiếc cổng vòm leo dây tơ
hồng nhìn ra hồ Tịnh Tâm đầy sen xô sóng biếc. Anh Huân, anh họ tôi, quen chị
đúng vào lúc mẹ anh, tức là dì tôi, đã đi coi mắt người vợ tương lai cho con, một
cô gái cùng làng tuy không nhan sắc mặn mà nhưng hiền lành, nết na, chăm chỉ.
Cha mất sớm, nhà đơn chiếc, anh tôi học chưa hết trung học đã đi lính, đóng
quân ở phi trường Phú Bài. Dáng người cao ráo, trắng trẻo, vẻ trí thức. Tôi nhớ
hình ảnh của anh mỗi lần đến thăm mẹ tôi, đi giày da đen bóng, mặc bộ quân phục
màu xanh xám, ủi hồ thẳng nếp, đẹp như vừa bước từ tiệm giặt ủi ra, cười nửa miệng.
Yêu chị, anh về năn nỉ gia đình từ hôn nhưng không được chấp nhận. Dì tôi một
mình nuôi con trai độc nhất, cực khổ trăm bề, nên tính tình cứng rắn, thương
con thì thương, không bao giờ đổi ý. Thế là anh tôi có người vợ trẻ để ở nhà
quê, cưới hỏi đàng hoàng, làm dâu dì tôi, hai mẹ con sớm hôm thủ thỉ, trong khi
anh vẫn ở với người phụ nữ khác ở Huế.
Chị làm ở văn phòng đại học Luật, chạy
xe Vélo Solex, mặc áo dài, xõa tóc ngang vai. Anh tự học lấy bằng tú tài, rồi ghi
danh học trường Luật, nơi có cây đa cao lớn phủ bóng mát thật đẹp trên đường Lê
Lợi, vì vậy hai người quen nhau, thường hẹn hò dưới bóng mát cây đa những trưa
mùa hè mồi hôi ra như tắm. Anh Huân gọi chị bằng biệt danh Tịnh Tâm, mặc dù đó không
phải là tên thật của chị. Tên khai sinh do cha mẹ đặt, sau khi họ gặp nhau, bỗng
trở nên mơ hồ gần như không có thật. Nhưng chị thì có thật trên đời, đi lại nói
cười, mới ngoài hai mươi tuổi đã rơi vào mối tình cay đắng, bị cha mẹ từ bỏ, không
lối thoát, phải ra ở riêng, đẻ hai đứa con cho anh, một trai một gái xinh đẹp, ngoan
ngoãn, nhưng chúng không được gia đình thừa nhận, lớn lên lủi thủi, tình thương
của người đàn ông đa tình không đủ bù đắp niềm tủi thân.
Tuy thế tính chị vốn vui vẻ, ưa giao thiệp, thích gần gũi bà
con, chưa thấy bóng người đã nghe tiếng cười nói líu lo. Những lần mẹ tôi dẫn
tôi vào Huế thăm bà con bên ngoại, tôi được anh và chị đưa đến khoảng sân rộng
trước chợ Đông Ba, buổi tối bày la liệt hàng quán, dưới những ngọn đèn dầu nhỏ,
ngồi trong bầu trời của Huế thanh bình thuở ấy, ăn tô bún bò rắc ớt hiểm cay
xé, đập lắc cắc hột vịt lộn trộn rau răm, húp tô cháo gà rải lá chanh xắt vụn li
ti, rắc tiêu đen Gio linh thơm ngậy. Khi cao hứng anh gọi một ly la-de Con Cọp
sủi bọt, đưa cho tôi nếm thử một hớp. Còn chị hát nho nhỏ khi đã yêu thì mơ mộng
nhiều, mơ ngày mai pháo nhuộm đường vui. Mười bốn tuổi, ngồi bên chân cầu Tràng
Tiền, ngước nhìn lên mấy vài cầu trắng đục vắt vẻo trong sương mù trên sông như
thực như ảo, tôi thầm nghĩ: thế giới yêu dấu này đẹp quá, đẹp nao lòng, họa có
điên mới đòi thay đổi nó. Anh chị có khi còn dẫn tôi vào cà phê Na ở góc đường
Trần Hưng Đạo, Huỳnh Thúc Kháng, lơ thơ ngọn đèn mờ, vẳng tiếng hát Duy Trác nhẹ
như tơ, Anh Ngọc ngọt lịm, Thanh Thúy réo rắt, uống cà phê phin. Lúc ấy tôi còn
nhỏ chưa biết thưởng thức cà phê nhưng bắt đầu mon men khoái ăn bánh mì patê Pháp,
uống trà Lipton. Sau tháng tư 1975, là sĩ quan, anh phải về quê quán cũ trình
diện, một cách tự nhiên trở lại với người vợ chính thức của mình, để lại chị và
hai đứa con nhỏ. Học tập cải tạo một thời gian ngắn, thêm một năm đi làm thủy lợi
như thời vua Vũ bên Tàu, anh mang gia đình vào Bà Rịa lập nghiệp. Còn chị, sau
một lớp học tập chính trị, được tiếp tục đi làm, trả lương tử tế, một tháng mười
mấy ký gạo. Mùa thu năm 1975, tôi vẫn còn gặp chị trước hành lang đại học Luật quét
vôi trắng, chị đổi qua mặc quần đen Mỹ Á nhưng vẫn còn tà áo dài ủi thẳng nếp,
tóc xõa ngang vai. Chị đã bán những chiếc xe PC, Velo Solex, đi làm việc bằng
xe đạp Phượng Hoàng trông như xe của các tay đua coureur đường dài của Pháp,
sau yên chất thêm cây nước đá bọc mạt cưa trong bao tải nâu bốc mùi ẩm mốc của thóc
gạo cũ, bỏ mối cho các quán cà phê, dù buộc kỹ vẫn lỏng le rớt lên rớt xuống.
Vài tháng sau mọi chuyện lại thay đổi, lương cán bộ không đủ sống, cơ quan cắt
giảm biên chế, chị ở trong số những nhân viên bị cho thôi việc sớm nhất. Từ đó,
mặc dù tôi vẫn đi học ở Huế nhưng ít khi gặp chị.
Mỗi tháng một lần tôi mang ba lô túi xách lên ga xe lửa về
quê. Một hôm, trời mưa sẫm tối, đang cắm cúi khệ nệ khiêng những túi xách trên
vai băng qua khoảng sân hẹp của nhà ga, tôi nghe tiếng một người phụ nữ chào mời,
em ơi em để chị gánh giúp cho. Hồi đó ở sân ga có nhiều người làm nghề khuân
vác thuê cho hành khách: những người lính lên tàu ra Bắc mang theo búp bê trẻ
em, đồ đạc lỉnh kỉnh làm quà, những người Huế bán cơ ngơi sự nghiệp gồng gánh vợ
con chạy vào Nam, những người buôn hàng chuyến và hàng sỉ, dân kinh tế mới, đi
thủy lợi, dân buôn vải lậu từ Lào, thuốc lá lậu từ Thái lan, trà lậu từ Bảo Lộc,
thuốc tây lậu từ Miên, dân buôn trầm từ Trường Sơn. Phụ nữ xách đòn gánh đứng
chờ đông như đạo quân tóc dài, xắn quần quá gối, nhận tiền công rẻ mạt, nhưng họ
vẫn ế khách, tranh giành nhau dữ dội, vì người đi xe lửa cũng chẳng có nhiều tiền.
Tôi không hiểu sao ngày ấy nhà ga được sắp xếp lạ lùng, có nhiều đoàn tàu xe lửa
Nam Bắc chạy vùn vụt qua sân ga không dừng lại, trong khi hành khách và người
khuân vác vẫn chạy đi chạy lại nhộn nhịp, kêu la í ới, lại thêm những người nhảy
tàu trốn vé, những người buôn bán quẳng từng thùng hàng nặng kịch lăn ầm ầm từ
trên nóc toa xuống trước khi tàu vào ga để trốn nhân viên kiểm soát, hay được
móc ngoặc trước bởi chính các nhân viên ấy, tất cả có thể gây tai nạn khủng khiếp.
Mà tai nạn hay xảy ra, mạng người cũng rẻ, trong một luồng chảy lịch sử vĩ đại gồm
nhiều vũng nước xoáy điên rồ, cá nhân như cọng rau ngọn cỏ, nỗi bất hạnh không
làm ai ngạc nhiên nữa.
Nghe tiếng quen, tôi quay lại. Và nhận ra chị, quần bà ba
đen, áo sơ mi màu cháo lòng bên trong, ngoài khoác cái áo lính rằn ri. Chị ôm lấy
tôi, khóc như trẻ con. Nguôi ngoai, chị lại dẫn tôi về nhà, cho ăn uống. Các
cháu đã lớn, biết giúp mẹ việc nhà. Cuộc sống cuối những năm bảy mươi thế kỷ
trước khó khăn, chị siêng làm lụng, đầu tắt mặt tối, nên anh chị không gặp nhau
nữa. Cũng như những người quen biết khác thời đó, trước đây thân thiết, cùng
nhau học một trường, đi một đường, từng bao dịp chuyện trò vui chơi đàn hát, mộng
lớn mộng con, văn chương văn chiếc, giúp đời giúp điếc, nay có khi đi qua trước
cửa nhà nhau mà không buồn ghé lại, không nỡ nhìn nhau trong cảnh cơ hàn. Không
biết chị có còn hát nhỏ một mình như ngày trước khi đã yêu thì lo sợ nhiều, lo chiều
thu nắng nhạt màu tươi.
Bẵng đi một thời gian, tôi về quê nghỉ hè ba tháng, khi trở
lại Huế, xuống ga, nhìn thấy những người đàn bà mang đòn gánh đứng mời khách ở
ngay cửa toa của đoàn tàu chưa kịp ngừng hẳn bánh, tôi liền nhớ đến chị. Khi
tôi đến nhà riêng của mấy mẹ con chị trong ngõ hẻm bùn lầy quanh năm, đứa con
trai mở tấm phên cửa ôm lấy tôi, vừa khóc vừa kể. Rồi hai chúng tôi vừa đi vừa
chạy vào bệnh viện trung ương Huế, đầu cầu sông Hương. Một tuần trước đó trong
đêm tối trời, khi đang khuân đồ cho khách xuống tàu, tranh nhau chạy qua những
đường ray chằng chịt, chị bị xe lửa cán qua nghiến nát bàn chân. Chị thoát chết,
nhưng mất chân trái, cưa trên đầu gối. Sau giải phẫu, chị nằm nhiều ngày ở khoa
chấn thương của bác sĩ Trần Tiễn Ngạc. Tôi đứng bên giường chị, trong khoảng
tranh tối tranh sáng. Chị không khóc, tập vịn giường bước đi chập chững, khuôn
mặt tuy đau đớn nhưng vẫn có nét bình thản. Không biết tôi đã nói gì lúc ấy,
nhưng chị bảo: em đừng khóc, chị không buồn nữa em à, vì đời chị buồn đã lâu rồi.
Chị chỉ lo mai đây không biết làm việc gì để nuôi hai cháu còn nhỏ. Nếu nghĩ ra
được sinh kế, chắc chị sẽ gắng vui mà sống. Nói xong, chị lại kể chuyện pha trò
để làm tôi vui.
Tôi để thằng bé con chị về trước rồi ra đứng một mình trên lan
can lầu bệnh viện nhìn xuống sông, vầng trăng sắp vào trung thu lên xanh bát
ngát. Trời khuya, sinh viên và y tá đi thăm bệnh phát thuốc lần cuối, tôi chào
chị ra về, hai chị em ôm lấy nhau, nước mắt tôi ứa ra. Đến chân cầu thang, tôi
quay lại hỏi một việc. Chị đang ngồi trên giường quay mặt về cửa sổ, không thấy
tôi, đưa chân trái bị thương tật lên xoa bóp, chị gỡ từng tấm vải băng ra khỏi
mỏm chân cụt, thời đó bông băng trong bệnh viện rất hiếm. Tôi thoáng thấy màu đỏ
như máu, sợ hãi, liền tiến gần lại. Thì ra đó là những tấm vải màu hồng cánh
sen, có lẽ chị đã xé ra từ những tà áo dài lụa, cắt đều đặn rất khéo, trông như
vải băng bó chuyên nghiệp. Trên nền vải drap trải gường nhàu nhỉ vàng ố, bên
chiếc gối các con chị mang từ nhà lên, may bằng vải bao cát, tức là từ các bao
đựng cát chất làm công sự chiến đấu của lính Mỹ, thứ hồi đó nhà nghèo hay dùng
làm vải may áo quần, màu xanh xám xịt, xù lông, những tấm vải lụa trông thật đẹp
và mát mắt, hơi ngộ nghĩnh, yêu kiều, lạc điệu, thách thức, đáng thương. Chị
nhìn tôi, điềm tĩnh, không ngạc nhiên, đưa tay ngoắt tôi lại gần, mỉm cười, giống
như khi chị đang ngồi làm việc sau chiếc bàn dài ở văn phòng đại học Luật, ngón
tay thoăn thoắt chạy trên bàn phím đánh máy. Khuôn mặt chị ngẩng lên sáng như
trăng rằm mỗi khi anh Huân dẫn tôi đến đón ở cửa, vừa mừng rỡ vừa buồn rầu, vừa
trách móc vừa tha thứ cho mối tình đơn sai lầm lỡ.