Nhà thơ Vũ Quần Phương nhận định: "Với Vũ Đình Liên, thơ không chỉ là chữ trên giấy mà còn là
chính cuộc đời ông. Nó tràn vào cách sống,cách xử thế của ông. Ngay sau ngày
thống nhất đất nước, ông lặn lội vào tận Bến Tre, viếng mộ cụ Đồ Chiểu, mang
một nắm dất ra Hà Nội chia tặng bạn văn thơ. Không biết đến nay ai còn giữ
được? Ai kính phục? Ai mỉm cười? Những năm ấy, thế giới phương Tây còn cách bức
vơi ta, người mê thơ Pháp ấy đã cố tìm một bạn văn đi Pháp để gửi một chai nước
lấy tự sông Hồng Hà Nội, nhờ sang đổ vào sông Xen ở Paris. Không biết đã có ai giúp ông việc ấy?
Ông sống thơ hơn các nhà thơ là ở chỗ này và ông khó hài lòng được với chính
thơ ông cũng là từ chỗ ấy. Nhiều câu thơ trong bài Ông đồ như vận vào đời ông..."
Kỷ niệm 100 năm Ngày
sinh Vũ Đình Liên
ÔNG ĐỒ hồn ở đâu bây giờ?
VŨ QUẦN PHƯƠNG
Tên thật được
lấy làm bút danh, sinh ngày 12-11-1913, quê gốc Hải Dương, mất ngày 18-1-1996
tại Hà Nội, Vũ Đình Liên là một trong những người mở đầu và góp phần tháng lợi
cho phong trào Thơ mới bằng một bài thơ (chỉ một thôi) xuất sắc Ông đồ, in lần
đầu trên báo Tinh Hoa năm 1936 . Trước và sau Ông đồ, ông có viết một số bài
thơ khác, nhưng chất lượng không bằng Ông đồ. Đầu năm 1941, trong một bức thư gửi
Hoài Thanh, lúc Hoài Thanh làm cuốn Thi nhân Việt Nam, Vũ Đình Liên viết “Tôi bao giờ
cũng có cái cảm tưởng là không đạt được ý thơ của mình. Cũng vì không tin thơ tôi có chút giá trị gì nên đã
lâu tôi không làm thơ nữa”. Hoài Thanh
nhận xét Vũ Đình Liên đã quá khiêm nhường, nhưng ông cũng hiểu nỗi đau lòng của
Vũ Đình Liên. Quả vậy, suốt năm sáu chục năm ấy, nói tới Vũ Đình Liên là người
ta nhớ ngay đến Ông đồ và chỉ Ông đồ đã đủ tôn vinh một nhà thơ.
Từ kháng chiến
chống Pháp cho đến khi tạ thế, Vũ Đình Liên dồn sức lực vào công việc sư phạm:
viết giáo trình, dạy tiếng Pháp và dịch thơ, mà hầu như chỉ dịch thơ Bô đơ le
(Beaudelaire, nhà thơ Pháp). Thỉnh thoảng có làm thơ, thơ như ghi chép chuyện
đời, như thù tạc với bạn bè, không mang đăng báo. Vũ Đình Liên lúc sinh thời
vẫn tới gặp gỡ bạn bè ở Hội nhà văn Việt Nam, nhưng ông đã là người thơ của
quá khứ rồi. Hình như ông không đọc và không trao đổi gì về thơ đương đại.
Vũ Đình Liên,
ngay từ buổi đầu làm thơ, đã tự nhận là nhà thơ của những người lao khổ. Trên
báo Phong Hoá, số ngày 18-8-1934, ông ao ước:
Tôi muốn hát những bài ca thảm thiết
Như những tiếng kêu than của người đói rét
(...)Tôi muốn ru những trẻ con côi cút
Không chốn nương thân, không người chăm chút
(...) Tôi muốn an ủi những người nghèo khổ
Thiểu não bơ vơ, không họ hàng nhà cửa
(...) Tôi sẽ gọi bạn
lầm than đói khát
Đến xung quanh để nghe tôi đàn hát
(...)Rồi hết thảy bầy rách rưới đui mù,
Từ ông lão già cho đến dứa trẻ thơ
Dứt tiếng hát đều kêu lên cảm khái:
-Anh ta thi sỹ của những người thân tàn ma dại
Bốn mươi ba
năm sau, 1977, khi ngoài đời đã bao nhiêu đổi thay: cách mạng thành công, nhà
nước nhân dân thành lập, người lao động thành người làm chủ...Vũ Đình Liên vẫn
nguyên vẹn lòng thương xót, nỗi chia xẻ tê tái với những người thất thiệt. Bài
thơ Người đàn bà điên ga Lưu Xá là một ví dụ. Người đàn bà điên ấy xơ xác, rách
rưới, bẩn thỉu, mọi người trên toa tầu xa lánh, chỉ có ông nhà thơ có cái nhìn
xót thương:
Tôi với người điên ngồi không nói
Dưới sàn trên ghế vẫn nhìn nhau.
Nhà thơ nhận
ra giữa mình và người điên kia như được trời xếp đặt để cùng thương cảm:
Ai xui khiến và ai xếp đặt
Một nhà thơ với một người điên
Quả là lời thơ
Vũ Đình Liên lúc này không diễn được hết ý ở lòng ông. Nhưng vấn đủ để ta nhận
ra chất tâm hồn ấy. Thương người nghèo khổ không chỉ là việc trong thơ mà là
cách sống của đời ông. Ông sống như thơ ông. Nhiều năm, cứ sáng mồng một tết,
ông gói đôi bánh chưng ra bến tàu xe ăn tết cùng với những người thân tàn ma
dại, tứ cố vô thân. Người nhà cho ông là trái nết, nhưng các bạn văn chương
khâm phục ông. Ông ăn uống kham khổ, mặc áo vải thô, đi bộ...dành tiền tặng
những người nghèo khó. Tiền thưởng danh
hiệu Giáo viên nhân dân, ông san sẻ cho sinh viên nghèo. Một chiếc áo dạ con
trai vừa biếu, ông tặng ngay cho người bạn có con trai là liệt sỹ. Ông như
người không có nhu cầu vật chất. Tiêu pha cho bản thân chả tốn kém bao nhiêu.
Đến ốm đau ông cũng tự chữa, không phiền đến bệnh viện. Có thời gian ông tá túc
ở chùa Bộc, ngôi chùa gần gò Đống Đa, hồi ấy còn gần với quần thể lăng tẩm ấp
Thái Hà. Ông dễ động lòng trắc ẩn với cảnh cũ người xưa. Ông là người bạn thầm
lặng và có tình nhất với gia đình Vũ Trọng Phụng. Miệng thế đổi thay, ông vẫn
nguyên tấm lòng thương, tin , nể, phục tài năng và đức độ ông Phụng. Ông coi
đứa con gái mồ côi của ông Phụng như con, còn thương hơn cả hai người con trai
của ông, bởi khi ông Phụng mất (1939), chị Vũ Mỹ Hằng mới đầy tuổi tôi. Tôi
không có ý định viết người tốt việc tốt về Vũ Đình Liên, nhưng muốn cùng bạn
đọc khám phá vào cái cội nguồn làm ra những câu thơ thương cảm và bao giờ cũng
thoáng chút ân hận mà bài thơ Ông đồ là một ví dụ. Vũ Đình Liên sống như muốn
đền bù cho xung quanh. Ông giản lược đến tột cùng nhu cầu vật chất của mình
cũng để xẻ chia cho người khác.
Với Vũ Đình
Liên, thơ không chỉ là chữ trên giấy mà còn là chính cuộc đời ông. Nó tràn vào
cách sống,cách xử thế của ông. Ngay sau ngày thống nhất đất nước, ông lặn lội
vào tận Bến Tre, viếng mộ cụ Đồ Chiểu, mang một nắm dất ra Hà Nội chia tặng bạn
văn thơ. Không biết đến nay ai còn giữ được? Ai kính phục? Ai mỉm cười? Những
năm ấy, thế giới phương Tây còn cách bức vơi ta, người mê thơ Pháp ấy đã cố tìm
một bạn văn đi Pháp để gửi một chai nước lấy tự sông Hồng Hà Nội, nhờ sang đổ
vào sông Xen ở Paris.
Không biết đã có ai giúp ông việc ấy? Ông sống thơ hơn các nhà thơ là ở chỗ này
và ông khó hài lòng được với chính thơ ông cũng là từ chỗ ấy. Nhiều câu thơ
trong bài Ông đồ như vận vào đời ông. Ông cũng ngơ ngác như lạc trong cuộc đời
hiện đại. Ông yêu thơ đến mức không dám làm thơ. Ông nổi tiếng mà không có tập
thơ riêng. Bài thơ Ông đồ là một thành tựu vừa như đột xuất vừa là tất yếu của chất
tâm hồn ông. Đột xuất, vì vào năm 1936 ấy, thơ Việt Nam đang ồn ào trong cách
tân hình thức và nồng nhiệt trong tình cảm yêu đương thì Ông đồ rất bình đạm,
cổ điển trong thể thơ năm chữ, giản dị trong lời thơ, lại nói một đề tài xưa cũ
nhưng ai đọc một lần thì đọng lại cả đời nỗi ám ảnh, xót thương. Ông đồ, ngưòi
theo đòi nghiên bút không thành danh, phải xoay ra bán chữ nuôi thân: viết câu
đối thuê trên vỉa hè Hà Nội vào những ngày năm hết tết đến. Lúc câu đối đắt
hàng, người đời trầm trồ ông đồ tốt chữ nghe cũng đã thảm, kẻ sỹ mà phải bán
chữ đã là cực lắm. Ấy thế mà bài thơ lại dắt ta vào thời đạo Nho mạt vận, đến
chữ đem bán mà không còn ai mua. Chưa thấy cảnh bán hàng nào thê thảm bằng cảnh
ông đồ bán chữ không đắt:
Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay
Hiện thực
trong thơ Vũ Đình Liên là hiện thực của nỗi lòng. Một nỗi lòng hoài cổ thấm
thía, sâu thảm, rất dễ tủi thân. Lúc ông đồ đắt hàng đâu có thấy gió mưa. Bây
giờ hết thời: trời thì đầy mưa bụi, rồi gió thổi, lá bay. Lá vàng cuối đông rơi
trên mặt giấy, rơi và nằm lại đấy vì mặt
giấy chưa được dùng đến, chẳng có nhu cầu gì phải nhặt nó đi. Cái lá bất động
trên cái chỗ không phải của nó cho thấy cả một dáng bó gối cũng bất động của
ông đồ ngồi nhìn mưa bụi bay. Văn tả thật ít lời, không những thấy ông đồ mà
còn thấy cả cái tiêu điều của xã hội qua mắt ông đồ. Tác giả có những chi tiết
thật đắt: nơi ông đồ là giấy mực, nơi trời đất là gió mưa, nơi xã hội là sự thờ
ơ. Cách đối chiếu chi tiết ở đoạn này với đoạn trên: mực với mực, giấy với
giấy, người với người, càng cho ta thấy nỗi thảng thốt xót xa của đổi thay sa
sút. Hai câu hàm súc nhất của bài là hai câu kết:
Những ngưòi muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?
Chúng ta đọc
được ở đây số phận của ông đồ, đúng hơn số phận của một thời đại, và cả thái độ
, tình cảm của lớp người tân thời khi chợt nhận ra những gì thuộc hồn xưa dân
tộc mà ta đã chót thờ ơ, nay quay lại tìm thì không còn nữa. Mới có mấy năm (từ
lúc ông đồ đắt hàng đến lúc ông ế hàng rồi biến mất) mà thời ông đồ đã thành xa
lắc. Chữ muôn năm cũ của câu trên dội xuống chữ bây giờ ở câu dưới rất gợi bâng khuâng. Dư âm
câu thơ như tiếng thở dài ân hận khôn nguôi.