Andrew và tôi ngồi trong xe hơi, cửa kính hạ xuống. Tôi nghe được tiếng nhạc vẳng ra từ radio và nghĩ đó là máy của cô gái hay bạn trai cô ta.Tôi khát quá, ra kỏi xe, tìm một chỗ mát mẻ, hay một cái máy bán thức uống, đâu đó trong công viên. Tôi mang quần đùi và sau hai bắp chân ướt lẫm mồ hôi. Tôi thấy một vòi nước uống bên kia công viên và đi tới đó bằng lối vòng dưới bóng hàng cây. Không có gì là có thật cả cho đến khi bạn bước ra khỏi xe. Lừ đừ vì nóng, vì mặt trời trên các ngôi nhà bỏng rộp lửa, hè đường, cỏ cháy, tôi bước đi chậm chạp. Tôi chú ý đến một chiếc lá bị dẫm nát, bóp vụn một que khuấy cà phê dưới gót giày, nheo mắt nhìn thùng rác cột vào thân cây. Đó là cách bạn quan sát những vật hèn mọn nhất bỗng trồi lên bề mặt thế giới, sau khi bạn đã lái xe đi thật lâu- bạn cảm nhận được tính chất riêng biệt của chúng, nơi cư ngụ chính xác và nỗi trùng hợp tình cờ đáng thương của việc bạn cũng có mặt nơi đây để nhìn ngắm chúng.



THỊ TRẤN BÊN ĐƯỜNG
ALICE MUNRO
Người dịch: NGUYỄN ĐỨC TÙNG
( tiếp theo)

Chúng tôi qua đêm ở Wenatchee, Washington, nơi nhiều tuần lễ không mưa. Chúng tôi ăn tối trong một nhà hàng dựng bên thân cây- không phải cây ghép trong chậu mà cây bông gòn mạnh mẽ cao lớn. Sáng sớm khi mặt trời mọc, chúng tôi lái xe ra khỏi thung lũng có nước tưới, leo lên những ngọn đồi khô cằn, sỏi đá, dốc đứng, mỗi ngày một thêm nhiều đồi cho đến khi tới một cao nguyên rộng xuyên qua bởi sông Spokane và sông Columbia. Trung du và thảo nguyên, dặm đường này đến dặm đường kia. Rồi có những con đường thẳng tắp, những thị trấn nông trại nhỏ, những kho tồn trữ lúa mì. Một cái bảng trên đường ghi rõ vùng chúng tôi đi vào, hạt Douglas, là nơi sản xuất lúa mì lớn thứ hai ở Mỹ. Có những thị trấn trồng nhiều cây xanh bóng mát. Hoặc ít ra tôi nghĩ chúng được trồng, bởi vì không thấy những cây lớn như thế ở vùng quê lân cận.
Tất cả khung cảnh ấy chào đón tôi một cách huy hoàng. “Vì sao em yêu chúng đến vậy?” Tôi bảo Andrew. “Chẳng phải vì nó hấp dẫn hay sao?”
“Vì nó gợi nhớ tới quê nhà của em,” Andrew nói. “Một nỗi hoài hương khẩn trương bi thiết”.
Nhưng anh nói thế với giọng tử tế.
Khi nói đến chữ "quê nhà" và ám chỉ Ontario, hai chúng tôi nghĩ đến những vùng khác nhau. Cố thổ của tôi là một nông trại nuôi gà tây, nơi cha tôi sống như người đàn ông góa vợ, và mặc dù đó là ngôi nhà mẹ tôi hằng sống, bà đã từng dán giấy lên tường, sơn phết dọn dẹp, sắp đặt bàn ghế, vẫn thấy rõ dấu hiệu của điêu tàn, của cuộc sống bắt đầu hoang dại. Một đời sống tiếp tục kiểu mà mẹ tôi không thể đoán trước hay tha thứ. Có những buổi tiệc của những người thợ làm gà tây, thợ máng nước, thợ nhổ lông gà, đôi khi có một hai chàng trẻ tuổi sống tạm vài ngày như quán trọ, rủ rê bạn bè tới tiệc tùng vui nhộn. Đời sống ấy, tôi nghĩ tốt hơn nhiều cho cha tôi so với cuộc sống cô đơn lặng lẽ, mà tôi cũng không bài bác và chẳng có quyền gì để phê phán. Andrew hoàn toàn không thích tới đó, cũng dễ hiểu thôi, bởi vì anh không phải loại người có thể ngồi lòng vòng quanh bàn bếp với những người thợ làm gà, kể chuyện chọc cười vui vẻ. Những người thợ ngượng ngùng khi có mặt anh, cảm thấy như bị coi thường, và đối với tôi thì cha tôi, những khi họ ở đó, cần đứng về phía họ. Và không chỉ Andrew là bực bội. Tôi chịu được chuyện pha trò của đám thợ, nhưng cũng phải cố gắng lắm.

Tôi ước những ngày nhỏ dại, trước khi gia đình có trại gà tây. Trước đó chúng tôi nuôi bò sữa và bán sữa cho hãng phô-mát. Trại gà không thể nào sánh được với trại nuôi bò hay nuôi cừu. Bạn có thể thấy những con gà tây nằm trên một băng dài nối tới những thùng đông lạnh và thịt chuẩn bị ăn được. Chúng không có vẻ giả tạo của đời sống thanh bình trong trại gia súc, những con lợn trong vườn cây râm mát. Chuồng gà là một dãy nhà dài, tiện lợi, làm bằng tôn. Không có những cái túi hay cỏ hay chuồng. Ngay mùi phân gà tuy loãng hơn nhưng lại khó chịu hơn phân bò. Không có một hình ảnh nào về cuộn cỏ, hàng rào hay chim chóc ca hát hay bụi mận gai trổ bông. Những con gà tây để đầy trên mặt đất nhưng chúng đã được rửa sạch. Chúng trông không giống những con chim lớn mà giống một thứ đồ đem giặt biết đập cánh.

Một lần nọ, ít lâu sau khi mẹ tôi qua đời và khi tôi đã lập gia đình - thực tế là tôi đã gói đồ đạc chuẩn bị về ở với Andrew ở Vancouver – tôi ở lại nhà vài ngày với cha tôi. Trời mưa lớn khác thường suốt đêm. Sáng sớm, trại nuôi gà ngập lụt. Ít nhất là những chỗ thấp bị ngập nước- trông như cái hồ với những hòn đảo nhỏ. Những con gà đứng xúm xít lại trên các hòn đảo ấy. Gà tây là thứ rất ngốc. Cha tôi vẫn nói, “Con có biết gà không? Có biết chúng xuẩn ngốc cỡ nào chưa? Vậy mà gà vẫn còn là Einstein nếu đem so với bọn gà tây này". Nhưng chúng vẫn biết tụ lại trên cao để tránh chết trôi. Bây giờ chúng xô đẩy nhau đến ngạt thở, run lạnh và chết. Không thể chờ nước rút. Chúng tôi kiếm chiếc xuồng cũ, tôi chèo còn cha tôi nắm những con gà lôi chúng lên xuồng, mang chúng vào trại gia súc. Trời vẫn còn mưa lai rai. Công việc thật vất vả, nhàm chán và khó chịu. Chúng tôi cười phá lên. Tôi cảm thấy hạnh phúc có dịp làm việc với cha tôi. Tôi cảm thấy gần gũi với thứ công việc nặng nhọc, lập đi lập lại, kinh khủng, khi thân xác bạn rã rời, trí óc chìm nghỉm (dù đôi khi tinh thần khinh khoái), và lòng tôi chưa chi đã nảy sinh mối hoài niệm lạ lùng về nơi chốn đây, cuộc sống này, trong những ngày sắp tới. Tôi nghĩ là nếu Andrew nhìn thấy tôi trong hoàn cảnh như thế, trong mưa, lòng bàn tay đỏ ửng lên, người đầy bùn, vừa cố nắm chặt chân gà vừa chèo thuyền, chắc anh chỉ muốn lôi tôi ra khỏi chỗ này và làm tôi quên bẵng đi mọi việc ở đây. Cuộc sống thô sơ như nhiên này làm anh tức giận. Sự gắn bó của tôi với nó càng làm anh giận dữ. Tôi nghĩ lẽ ra tôi không nên lấy anh. Nhưng lấy ai bây giờ? Một trong những người thợ làm gà tây chăng?
Và tôi cũng không muốn ở đây lâu. Có lẽ tôi sẽ buồn khi bỏ đi, nhưng còn tệ hơn nếu có ai đó khiến tôi phải ở lại.

Mẹ của Andrew sống ở Toronto trong một căn hộ chung cư nhìn ra công viên Muir. Khi Andrew và người chị của anh còn ở nhà, mẹ họ ngủ ngoài phòng khách. Chồng của bà, một bác sĩ, qua đời khi những đứa trẻ còn nhỏ dại chưa đến tuổi tới trường. Bà học một khóa huấn luyện thư ký và bán căn nhà của mình với giá rẻ mạt, dọn vào cư xá, nuôi dạy con cái tươm tất, với sự giúp đỡ của vài người thân- người chị của bà tên Caroline, người anh rể tên Roger. Andrew và chị đi học trường tư và đi cắm trại mùa hè.
“Thế mà em cứ tưởng là nhờ quỹ tương tế xã hội kia chứ?” Có lần tôi bảo thế, chế nhạo anh về việc anh tự cho mình là một người nghèo. Trong trí tôi, đời sống thành thị của Andrew an toàn quá mức, cầu kỳ kiểu cách. Mẹ của anh về nhà ôm lấy đầu sau một ngày làm việc đầy tiếng động, ánh sáng chói chang của văn phòng tiệm tạp hóa, nhưng đối với tôi đời sống của bà không có gì khó khăn hay đáng thán phục. Tôi không nghĩ bản thân bà tin rằng mình là một người đáng thán phục - chỉ là không may mắn. Bà lo lắng về công việc của mình ở văn phòng, quần áo, việc bếp núc, con cái. Bà lo âu gần như về tất cả những gì mà Roger và Caroline có thể để mắt tới.
Caroline và Roger sống ở phía đông của công viên, trong một ngôi nhà đá đẹp tuyệt. Roger cao, hói đầu, da mặt tàn nhang, có cái bụng lớn nhưng rắn chắc. Cuộc giải phẫu ở vùng họng làm ông nói giọng khó nghe – như tiếng thì thào thô ráp. Nhưng ai cũng chú ý nghe cả. Có lần trong bữa ăn tối ở ngôi nhà bằng đá kia – tất cả những bàn ghế đồ đạc trong phòng ăn đều lớn, màu tối lộng lẫy, nguy nga – tôi hỏi anh một câu. Tôi nghĩ là có liên quan đến Whittakers Chambers, câu chuyện của ông ta xuất hiện trên báo Bưu Điện Chiều Thứ Bảy. Tôi hỏi nhẹ nhàng thôi nhưng anh nghĩ là có dụng ý khiêu khích và gọi tôi là bà Gromyko, ý muốn nói người mà tôi cùng chia sẻ quan điểm. Có thể anh cần một đối thủ nhưng chẳng tìm thấy ai. Trong bữa ăn tối, tôi nhìn thấy tay của Andrew run lên khi anh bật lửa châm thuốc cho mẹ anh. Dượng Roger trả tiền cho việc học hành cho Andrew, và có chân trong ban giám đốc của một số công ty.
“Dượng ấy chỉ là một người có quan niệm ương bướng,” sau này Andrew bảo tôi. “Làm gì mà em cứ phải tranh cãi với ông?”
Trước khi chúng tôi rời Vancouver, mẹ của Andrew viết thư, Roger có vẻ tò mò về ý định của con muốn mua một cái xe hơi loại nhỏ! Dấu chấm than của bà diễn tả lo ngại. Vào thời đó, đặc biệt là ở Ontario, việc mua một chiếc xe hơi nhỏ kiểu châu Âu thay vì xe Mỹ cỡ bự trông như là một bản tuyên bố - một tuyên bố về lập trường mà Roger đánh hơi được từ lâu.
“Nhưng xe này không thuộc loại xe nhỏ,” Andrew nói bực bội.
“Đó không phải là điểm chính,” tôi bảo anh. “Điểm chính là, mắc mớ chi tới dượng ấy!”.

Chúng tôi qua đêm thứ hai ở Missoula. Người ta bảo chúng tôi trong một trạm đổ xăng ở Spokane, là có chỗ sửa chữa xe cộ phụ tùng dọc theo tuyến đường cao tốc số 2 và chúng tôi đã lái qua những dặm đường nóng nực đầy bụi bặm, những thời gian chờ đợi rất dài, vì vậy chúng tôi rẽ về xa lộ liên tỉnh, băng qua Coeur d’Alene và Kellogg để vào Montana. Qua khỏi Missoula chúng tôi hướng lên phía nam về phía Butte, nhưng rồi vòng lại để thăm Helena, thủ phủ của tiểu bang Montana. Trên xe hơi chúng tôi chơi trò Tôi Là Ai?
Cynthia đóng vai một người Mỹ, một người đã chết, và có thể là bé gái. Có thể một phụ nữ. Cô ấy không có mặt trong câu chuyện. Cô không hề xuất hiện trên tivi. Cynthia cũng không đọc gì về cô ta trong sách. Cô không phải là người đã từng tới thăm lớp mẫu giáo hay bà con gì của bạn bè của Cynthia.
“Cô ta có phải là người không?” Andrew hỏi một cách tinh ý đột ngột.
“Không! Đó là thứ mọi người quên hỏi!"
“Một con vật,” Tôi nói sau khi đã suy nghĩ.
"Có phải đó là một câu hỏi không? Có mười sáu câu hỏi!”
“Không, đó không phải là một câu hỏi. Mẹ đang suy nghĩ. Một con vật đã chết.”
“Đó là con nai,” Meg nói, nhưng nó không phải là người chơi.
“Không công bằng!” Cynthia nói. “Meg không chơi.”
“Con nai nào?” Andrew nói.
Tôi bảo, “Ngày hôm qua”
“Ngày hôm trước,” Cynthia nói. “Meg không chơi. Không ai đoán được.”
“Con nai trên xe tải,” Andrew bảo.
“Đó là một con nai cái, vì nó không có gạc, và đó là một con nai Mỹ, và nó đã chết rồi,” Cynthia bảo.
Andrew nói, “Cha nghĩ đó là ý tưởng bệnh hoạn, đóng vai một con nai chết.”
“Con hiểu rồi,” Meg nói.
Cynthia bảo, “Con nghĩ con biết bệnh hoạn nghĩa là gì. Đó là một thứ sầu muộn.”
Helena, một thị trấn khai mỏ bạc cũ, trông hoang vắng ngay trong ánh nắng bình minh. Rồi đến BozemanBillings, không tiêu điều chút nào –sống động mạnh mẽ với nhiều dặm dài lóng lánh kim tuyến của bãi bán xe hơi cũ. Chúng tôi mệt lử và cảm thấy nóng ngay cả khi chơi trò Tôi Là Ai? Những thành phố bận rộn và tẻ nhạt nhắc tôi nhớ tới những địa điểm khác ở Ontario, và tôi sực nghĩ, điều gì thực ra đang chờ đợi mình ở đó – những đồ đạc bia đá trong phòng ăn của dì dượng Caroline và Roger, những bữa ăn tối khiến tôi phải ủi những bộ trang phục của trẻ con, nhắc chúng về những cái nĩa và một cái bàn ăn khác một trăm dặm xa, những trêu đùa chọc ghẹo của đám thợ làm gà tây của cha tôi. Niềm vui thú tôi hằng nghĩ tới – thả mắt nhìn ra xa vùng quê êm ả hay uống một chai Coke trong tiệm tạp hoá cũ với những cây quạt trần và mái tôn cao – đã bị những thứ ấy giựt phăng mất.
“Meg buồn ngủ,” Cynthia nói. “Nó nóng quá. Làm con ngồi gần cũng nóng lây.”
“Mẹ hy vọng là nó không bị sốt,” tôi bảo, không ngoảnh lại.

Chúng tôi làm những chuyện này vì cái gì, tôi nghĩ thầm, và câu trả lời đến ngay – để khoe thôi. Để cho mẹ của Andrew và cha tôi niềm vui gặp cháu của họ. Đó là bổn phận. Nhưng đằng sau cái đó chúng tôi còn muốn khoe một điều gì khác nữa. Thực là những đứa trẻ hăm hở biết bao, tôi và Andrew, những kẻ lúc nào cũng đi tìm sự tán đồng ở người khác. Như thể vào một lúc nào đó ở một điểm nào đó chúng tôi đã nhận được những thông điệp khó nuốt không thể nào quên – rằng chúng tôi đã đi quá xa, và rằng sự thành công thông thường trong đời đã ở sau lưng chúng tôi quá lâu. Dượng Roger đã phát đi những thông điệp ấy, tất nhiên theo cách của ông – nhưng mẹ của Andrew, mẹ tôi và cha tôi, cũng không ai khác biết cách phát đi thông điệp. Tất cả họ đều muốn nói với chúng tôi rằng “ Cẩn thận đấy, phải hoà hợp với mọi người thôi”. Cha tôi khi tôi còn ở trung học đã từng chế nhạo rằng tôi nghĩ mình quá thông minh nên chắc không bao giờ có một đứa bạn trai. Rồi ông quên bẵng điều ông nói trong một tuần, nhưng tôi thì không bao giờ quên. Andrew và tôi không quên điều gì cả. Chúng tôi dễ bị tổn thương.
“Con ước có một bãi biển,” Cynthia nói.
“Có lẽ có một cái,” Andrew bảo. “Ngay phía sau đường lượn vòng.”
“Không có đường vòng nào cả,” Cynthia bảo, giống như tức tối.
“Mẹ cũng muốn nói thế đấy.”
“Con ước gì có một ly chanh đường.”
“Mẹ thì muốn có cây đũa thần và biến phép một ly chanh đường,” tôi nói. “Được thôi, Cynthia? Hay là một ly nước nho vắt? Rồi mẹ hoá phép một bãi biển ở đó nữa”
Cynthia im lặng và tôi cảm thấy hối hận ngay. “Có thể trong thị trấn trước mặt sẽ có một bể bơi,” tôi nói. Tôi nhìn bản đồ. "Ở thị trấn Miles City. Dù sao chúng ta sẽ có một thứ gì đó mát để uống.”
“Xa hay gần hả em?” Andrew hỏi.
“Không xa lắm đâu,” tôi nói, “Ba mươi dặm, cỡ đó.”
“Ở thị trấn Miles City,” Cynthia nói, giọng trầm xuống như đang niệm chú, "sẽ có một bể bơi xanh ngắt đẹp tuyệt dành cho trẻ con và một công viên cây cối mơ màng.”
Andrew bảo tôi, “Em có thể bắt đầu vài thứ em thích”.
Nhưng quả thật có một bể bơi. Một công viên nữa, mặc dù nó không giống ốc đảo trong mơ của Cynthia. Những cây cối thảo nguyên có lá mỏng – cây bông gòn và cây dương – cỏ uá, và hàng rào thép bao quanh bể tắm. Bên trong hàng rào ấy, một bức tường chưa xây xong gồm những tấm xi măng ghép. Không có tiếng cười đùa, tiếng giỡn nước; xuyên qua lối vào tôi nhìn thấy tấm bảng ghi bể bơi tạm đóng cửa từ mười hai giờ trưa đến hai giờ chiều. Lúc đó là mười hai giờ hai mươi lăm phút.
Nhưng tôi vẫn gọi, "Có ai đó không?" tôi nghĩ có người quanh đây, vì một chiếc xe tải nhỏ đỗ trên lối vào. Trên thành xe có tấm bảng ghi:  Chúng tôi có mưu lược để sửa chữa ống nước. (Chúng tôi cũng có dịch vụ hút cầu Roto- Rooter).
Một cô gái chạy ra, mặc áo cứu hộ màu đỏ bên ngoài bộ đồ tắm. "Xin lỗi, chúng tôi đóng cửa."
"Chúng tôi vừa lái xe ngang qua," tôi nói.
"Chúng tôi đóng cửa mỗi ngày từ mười hai giờ trưa đến hai giờ chiều. Trên bảng có ghi rõ." Cô ta đang ăn bánh mì xăng uých.
"Tôi có thấy tấm bảng," tôi nói. "Nhưng đây là nơi đầu tiên có nước tắm rửa sau nhiều ngày đường, mà các cháu thì nóng nực quá sức, và tôi mong chúng có thể nhảy ùm xuống nước một lát- chỉ năm phút thôi mà. Chúng tôi sẽ canh chừng chúng.'
Mộ cậu trai trẻ xuất hiện sau lưng cô gái. Chàng trai mang quần jeans và áo thun in hàng chữ Roto- Rooter.
Tôi định kể chúng tôi đi từ British Columbia đến Ontario nhưng chợt nhớ đối với nhiều người Mỹ mấy cái địa danh Canada này chẳng gợi lên điều gì nên thôi."Chúng tôi lái xe xuyên liên bang," tôi nói. "Chúng tôi không có thời giờ để chờ bể bơi mở cửa. Chỉ hy vọng là các cháu có cái gì tắm mát một chút."
Cynthia chạy chân không tới đằng sau tôi."Mẹ. Mẹ ơi, bộ đồ tắm của con đâu?" Rồi nó dừng lại, nhận ra tính nghiêm trọng trong cuộc thương lượng của hai chúng tôi. Meg đang trèo ra khỏi xe hơi- vừa thức giấc, áo kéo lên đầu, quần tụt xuống bẹn, bày cái bụng hồng hồng.
"Chỉ có hai đứa bé này thôi à?" cô gái hỏi.
" Chỉ hai cháu này thôi. Chúng tôi sẽ canh chừng chúng ạ."
"Tôi không thể cho người lớn vào đây. Nếu chỉ có hai đứa, tôi nghĩ tôi có thể coi được. Tôi đang ăn trưa." Cô ta hỏi Cynthia, " Cháu có muốn xuống hồ bơi không?"
"Dạ có ạ," Cynthia trả lời rõ ràng.
Meg nhìn xuống đất.
"Chỉ một lát thôi, vì hồ bơi đã đóng cửa," tôi nói." Chúng tôi thực cám ơn cô lắm lắm," tôi bảo cô gái.
"Thôi vậy, tôi có thể ăn trưa ngoài ấy, nếu chỉ có hai cô bé này." Cô nhìn ra xe chúng tôi như thể  bỗng dưng tôi có thể lôi ra thêm vài đứa trẻ nữa.
Khi tôi tìm ra bộ đồ tắm của Cynthia, nó mang ngay vào phòng thay đồ. Nó không muốn ai, ngay cả Meg, nhìn thấy nó ở truồng. Tôi thay đồ cho Meg, nó đứng trên ghế trước trong xe. Nó có bộ đồ tắm bằng vải hồng với dây buộc và nút cài. Có giải rút ở đũng quần.
"Người cháu nóng lắm," tôi nói." Nhưng tôi nghĩ không phải bị sốt đâu."

Tôi thích giúp Meg mặc hay cởi áo quần, vì cơ thể nó còn chưa tự ý thức về mình, với tính thờ ơ ngọt ngào, một cái gì như mùi sữa, của trẻ sơ sinh. Cơ thể của Cynthia thì từ lâu đã được gọt giũa, tạo hình và thay đổi, để trở thành chính Cynthia. Ai cũng  muốn hôn lấy hôn để, quệt mặt vào người Meg. Đôi khi nó nhăn nhó bực bội, đánh lại chúng tôi, và tính tự lập quyết liệt, sự ngượng ngùng giận dữ này, càng làm nó thêm hấp dẫn, khiến người ta cứ muốn ôm nghiến lấy, thọc lét, kiểu người thân trong nhà.

Andrew và tôi ngồi trong xe hơi, cửa kính hạ xuống. Tôi nghe được tiếng nhạc vẳng ra từ radio và nghĩ đó là máy của cô gái hay bạn trai cô ta.Tôi khát quá, ra kỏi xe, tìm một chỗ mát mẻ, hay một cái máy bán thức uống, đâu đó trong công viên. Tôi mang quần đùi và sau hai bắp chân ướt lẫm mồ hôi. Tôi thấy một vòi nước uống bên kia công viên và đi tới đó bằng lối vòng dưới bóng hàng cây. Không có gì là có thật cả cho đến khi bạn bước ra khỏi xe. Lừ đừ vì nóng, vì mặt trời trên các ngôi nhà bỏng rộp lửa, hè đường, cỏ cháy, tôi bước đi chậm chạp. Tôi chú ý đến một chiếc lá bị dẫm nát, bóp vụn một que khuấy cà phê dưới gót giày, nheo mắt nhìn thùng rác cột vào thân cây. Đó là cách bạn quan sát những vật hèn mọn nhất bỗng trồi lên bề mặt thế giới, sau khi bạn đã lái xe đi thật lâu- bạn cảm nhận được tính chất riêng biệt của chúng, nơi cư ngụ chính xác và nỗi trùng hợp tình cờ đáng thương của việc bạn cũng có mặt nơi đây để nhìn ngắm chúng.

Những đứa trẻ đâu rồi?
Tôi xoay người lại, bước rất mau, không hẳn là chạy, tới bên một đoạn hàng rào nơi bức tường bên trong chưa xây xong. Từ đây tôi có thể nhìn thấy hồ bơi. Tôi thấy Cynthia, đứng ngâm mình trong nước ngang thắt lưng, vung tay đập nước và chăm chăm nhìn một vật gì phía cuối hồ bơi, nhưng tôi không thấy được. Căn cứ vào dáng đứng của nó, sự chăm chú, vẻ mặt, tôi nghĩ nó đang coi mấy trò của cô gái cứu hộ và gã bồ cô ta. Tôi không thấy Meg. Nhưng tôi nghĩ nó đang chơi ở chỗ nước cạn- cả hai đầu nước cạn và nước sâu tôi đều không nhìn thấy.
"Cynthia!" Tôi phải gọi hai lần con bé mới nhìn ra chỗ đứng của tôi."Cynthia! Meg đâu rồi?"
Có vẻ Cynthia, bất cứ khi nào tôi nhớ lại cảnh này, quay mình duyên dáng về phía tôi, rồi xoay cả người trong nước- làm tôi nghĩ tới một vũ điệu ba lê - và dang tay ra như đứng trên sân khấu. "B- i- ế- n- m- ấ- t!"
Cynthia vốn có tính duyên dáng tự nhiên, mà con bé lại học múa, vì thế những động tác này có thể đã xảy ra đúng như thế thật. Nó quả thật có nói "Biến mất!" sau khi đã nhìn quanh mặt hồ một lượt, nhưng điệu bộ và cách nói giả tạo này, cái kiểu không hề khẩn trương chi, thì chắc là do sự tưởng tượng thêm của tôi. Nỗi sợ hãi xâm chiếm lập tức khi không tìm thấy con bé Meg- ngay cả khi tôi tự bảo mình có lẽ nó đứng phía nước cạn- đã là nguyên cớ khiến những cử chỉ của Cythia trở nên quá chậm chạp, quá vô lý đối với tôi, và giọng điệu của chữ "Biến mất" ngay trước khi hàm ý của nó kịp xuất hiện (hay là con bé che giấu, ngay tức thì, cảm giác tội lỗi của nó?) trở nên một lời nói ích kỷ không chịu nổi.
Tôi la lớn lên gọi Andrew, và cô gái coi hồ bơi lập tức xuất hiện. Cô chỉ tay về phía vùng nước sâu và nói, "Cái gì kia kìa?"
Ở đó, ngay trước mắt tôi, một nhúm giải rút hồng hồng phồng lên, trông như một bó hoa, ngay dưới làn nước. Làm sao một nhân viên cứu nạn lại có thể đứng dừng lại và chỉ tay, sao cô ta lại có thể hỏi như thế, sao không nhảy ùm xuống nước và bơi về phía ấy? Cô ta không bơi; mà chạy dọc bờ nước. Nhưng lúc ấy Andrew đã leo lên hàng rào. Bao nhiêu thứ xảy ra không thể giải thích chút nào- cử chỉ của Cynthia rồi đến điệu bộ của cô nhân viên cứu nạn- và bây giờ tôi lại có cảm giác rằng Andrew nhảy phóc một cái đã qua được hàng rào cao bảy bộ. Chắc anh phải trèo nhanh lắm, túm chặt hàng rào dây thép.
Tôi không thể nhảy hay leo gì cả, tôi chạy về phía lối vào, ở đó có một cái cổng kiểu mắt cáo, khoá chặt. Cái cổng không cao lắm, và tôi đu người trèo qua. Tôi chạy dọc theo hành lang xi măng, tới sát mép nước.

Bi kịch kết thúc.
Andrew nắm được Meg đầu tiên, và kéo nó lên khỏi mặt nước. Anh chỉ cần vươn tay ra là nắm lấy nó, vì Meg phần nào đang tự bơi, nhưng đầu đã hụp sâu trong nước - nó lặn ngụp về phía thành hồ tắm. Anh bồng nó đi, và cô cứu hộ bước nhanh phía sau. Cynthia vừa trèo ra khỏi nước và chạy về phía họ. Chỉ một người thờ ơ với toàn bộ sự việc là gã bạn trai của cô nhân viên, cứ ngồi trên ghế dài phía nước cạn, uống một thứ nước pha sữa. Anh ta còn mỉm cười với tôi, và tôi nghĩ thật kẻ là vô cảm, mặc dù nguy hiểm đã qua. Cũng có thể anh ta có hảo ý. Tôi để ý thấy anh ta không tắt radio đi, chỉ vặn nhỏ xuống.
Meg không uống nước đầy bụng. Con bé thậm chí chưa kịp sợ hãi. Tóc dính bết vào đầu và mắt mở to, vàng long lanh.
" Con muốn xuống lấy cái lược," nó nói."Con không biết nước sâu thế."
Andrew nói,"Meg vẫn tự bơi! Nó bơi mình nó. Anh thấy bộ đồ tắm của con trong nước rồi anh thấy nó bơi”
“Nó sắp chìm nghỉm luôn rồi,” Cynthia nói. “Không phải vậy sao? Meg sắp chết đuối.”
“Tôi không biết mọi chuyện có thể xảy ra như thế.” Cô cứu hộ nói. “Con bé vừa mới ở chỗ này, chỉ một thoáng đã không còn đó nữa.”
Chuyện xảy ra là Meg đã lên khỏi nước ở phía nước cạn và chạy dọc theo bể bơi đến đầu kia, chỗ nước sâu. Nó thấy một cái lược người nào đánh rơi dưới đáy. Nó khom người cúi thật sát để lượm cái lược lên, tưởng là nước không sâu. Nó chồm người lên nữa và trượt chân xuống hồ, rơi bõm một cái nhưng không ai nghe được tiếng động- kể cả cô gái cứu hộ, đang bận hôn anh bồ của mình, hoặc Cynthia đang đứng mãi nhìn hai người. Đó đúng là lúc khi tôi đứng dưới bóng cây và chợt nghĩ, Bọn trẻ đang ở đâu vậy? Đó cũng là lúc, Meg trượt chân, lấy làm ngạc nhiên, xuống làn nước trong xanh dễ đánh lừa người ta.
“Mọi chuyện ổn rồi,” tôi bảo cô nhân viên, lúc ấy gần sắp khóc. “Con bé bơi rất nhanh.” (Mặc dù thường chúng tôi không nói về Meg như thế. Chúng tôi nói nó ngẫm nghĩ mọi chuyện trước đã rồi mới thong thả làm.)
“Em đã bơi, Meg”, Cynthia nói, kiểu như chúc mừng. (Sau này nó kể cho chúng tôi nghe về việc hai người kia hôn nhau.)
“Con không biết là nước sâu thế,” Meg bảo. “Con đã không bị chết đuối.”

Chúng tôi ăn trưa ở một tiệm bán thức ăn mang đi, có bánh mì kẹp thịt heo hamburger và khoai tây chiên, ngồi quanh một cái bàn ngoài trời không xa lắm xa lộ cao tốc. Quá vui mừng, tôi quên bẵng mua cho Meg một cái bánh mì kẹp không mùi, và phải cạo bỏ dưa và mù tạt bằng muỗng nhựa, rồi lau miếng thịt với tấm giấy chùi miệng, trước khi đưa cho con bé ăn. Tôi lợi dụng cái thùng rác gần đó để lau chùi xe hơi. Rồi chúng tôi lại lên đường lái xe về phương Đông, cửa kính xe hơi phía trước mở hết ra. Cynthia và Meg ngủ thiếp đi trên băng ghế sau.
Andrew và tôi thầm thì trò chuyện về những điều vừa xảy ra. Giả sử tôi không linh cảm vụt chạy đi tìm những đứa trẻ vào lúc ấy? Giả sử chúng tôi đi vào thành phố để uống một cái gì, như dự định ban đầu thì sao? Làm thế nào Andrew có thể nhảy qua hàng rào? Anh ấy trèo lên hay thực sự đã nhảy qua? (Anh không thể nào nhớ nổi.) Làm cách nào anh đã chạy tới và chụp lấy Meg nhanh đến thế? Và nghĩ đến chuyện cô nhân viên cứu hộ không hề nhìn nhỏi gì đến con bé. Rồi Cynthia đứng trân trân nhìn hai người kia hôn hít nhau. Nó chẳng nhìn thấy gì khác nữa. Không nhìn thấy Meg rơi khỏi mép nước.
Biến mất.
Nhưng nó còn bơi. Nó nín thở và tiếp tục bơi.
Một chuỗi những biến cố may mắn.
Đó là tất cả những gì chúng tôi trò chuyện- may mắn. Nhưng tôi không thể ngừng mà không nghĩ đến chuyện tệ hại xảy ra theo hướng ngược lại. Vào lúc này đây, chúng tôi đã có thể phải ngồi điền những tờ đơn khai báo. Người ta mang Meg khỏi vòng tay của chúng tôi, cơ thể nó được quấn lại chuẩn bị chở đi xa. Về lại Vancouver- nơi chúng tôi chẳng bao giờ lưu ý đến một thứ gì như là nghĩa địa- hay tới Ontario? Những bức tranh nguệch ngoạc mà Meg vẽ sáng nay chắc vẫn còn nằm lại trên ghế ngồi của nó sau xe. Làm thế nào tất cả những điều này có thể chịu đựng được, làm sao con người có thể đương đầu nổi với những câu chuyện như thế? Đôi vai và hai bàn tay và hai bàn chân ngọt ngào, tròn trịa, mái tóc nâu óng ả, vẻ mặt hài lòng và bí ẩn - tất cả đều giống hệt như lúc nó còn sống. Một bi kịch hết sức đời thường. Một đứa trẻ chết trôi trong một bể bơi vào buổi trưa một ngày mùa hạ sáng lòa. Mọi việc sẽ thu gọn lại mau chóng. Hồ bơi sẽ mở cửa lại lúc hai giờ chiều. Cô nhân viện cứu hộ sẽ run rẩy một lúc và xin phép nghỉ việc chiều hôm đó. Cô sẽ lái xe ra đi cùng với người tình trên chiếc xe tải nhỏ hút cầu Roto-Rooter. Cái xác của đứa bé sẽ được khâm liệm trong chiếc quan tài nhỏ để chở đi. Thuốc an thần, những cuộc gọi điện thoại, những thu xếp này nọ. Sự trống rỗng bỗng nhiên ập tới, nỗi chìm khuất và dịch chuyển mù tối. Thức giấc choáng váng vì thuốc ngủ và an thần, trong một lát chợt nghĩ thầm ồ đó là điều không thật. Rồi nghĩ rằng giá như chúng tôi không dừng lại bên đường, giá như chúng tôi đừng đi con đường này, giá như họ không cho phép chúng tôi dùng bể bơi. Có lẽ sẽ không một người nào biết gì về cái lược im lặng nằm dưới đáy hồ kia.

Có một điều gì đó tồi tệ đối với trí tưởng tượng kiểu này, phải không? Một điều gì như sự xấu hổ. Đặt ngón tay của bạn lên hàng rào thép gai, nhận một cú sốc điện, biết được cảm giác ấy thế nào, rồi giựt tay lại. Tôi tin là Andrew còn tỉ mỉ hơn tôi về những điều này, và vào lúc ấy anh cố tình nghĩ đến việc khác.
Khi đứng tách khỏi cha mẹ tôi trong tang lễ của Steve Gauley và quan sát họ, tôi đã bắt gặp cảm giác mới mẻ này, không thoải mái chút nào về họ, tôi nghĩ rằng tôi bắt đầu thấu hiểu một điều gì đó về cha mẹ, lần đầu tiên trong đời. Một điều gì nghiêm trọng chết người. Tôi hiểu ra rằng họ có dính líu tới tai nạn này. Thân thể cao lớn, cứng nhắc, trong y phục nghiêm trang, vẫn không thể nào chắn ngang giữa tôi và cái chết đột ngột kia, hoặc bất kỳ một cái chết nào khác. Họ đã tán thành tai nạn ấy. Có vẻ như vậy. Họ đã cho phép cái chết của những đứa trẻ và cái chết của tôi nữa, xảy ra, không phải bởi lời nói hay hành động của họ, mà bởi vì chính họ đã sinh ra những đứa trẻ ấy trên đời - họ đã sinh ra tôi. Họ đã tạo ra tôi, và vì lý do đó cái chết của tôi - bất kể họ khóc thương thế nào, bất kỳ họ chịu đựng ra sao - đối với họ cũng đều không phải là thứ không tự nhiên hay không thể xảy ra được. Đó là một điều có thật, dù ngay lúc ấy tôi cũng biết rằng thật ra họ không đáng trách.
Nhưng tôi đã trách họ. Tôi đã buộc tội họ về sự trơ tráo, thói đạo đức giả. Thay mặt cho Steve Gauley, cho tất cả những đứa trẻ khác, những kẻ biết rằng chúng có quyền vươn thẳng lên tự do, được sống cuộc đời mới, tuyệt diệu, không bị mắc vào những cái bẫy của người lớn với đời sống thất bại, tình dục và các tang lễ của họ.

Steve đã chết đuối, người ta bảo thế, bởi vì nó gần như là một đứa trẻ mồ côi và được phép rong chơi tự do tha hồ. Nếu nó được nhắc nhở kịp thời, giao cho công kia việc nọ để làm, được giám sát kỹ càng, nó đã không thể nào tuột tay từ một cành cây mỏng mảnh không đáng tin cậy chút nào mà rơi xuống ao nước mùa xuân, rơi vào một cái hố đào sỏi gần bờ sông – nó đã không chết đuối. Nó đã bị bỏ rơi, nó đã được thả rong tự do, và nó đã chết. Và cha nó vẫn thấy đó là một tai nạn, như thứ có thể xảy ra cho một con chó. Ông ta không có cả một bồ đồ lễ tử tế để mặc trong ngày đám tang của con, cũng không cúi đầu khi cầu nguyện. Nhưng ông ta là người lớn duy nhất mà tôi không thèm trách cứ. Ông ta là người duy nhất mà tôi không thấy rõ sự tán thành. Ông ta đã không thể ngăn ngừa một điều gì, nhưng ông ta cũng không dính líu đến tai nạn – không giống như những người lớn khác trong khi cầu nguyện lời Chúa với giọng trầm trọng không mấy tự nhiên, làm rỉ ra thứ tín ngưỡng và thứ mất danh dự đáng hổ thẹn.

Khi tới vùng Glendive, không xa biên giới North Dakota, chúng tôi có một chọn lựa - hoặc là tiếp tục đi theo xa lộ liên tỉnh, hoặc là hướng về Đông Bắc, phía Williston, rẽ vào đường số 16, vài đường khác, và trở lại với xa lộ cao tốc số 2.
Hai chúng tôi đồng ý rằng đường liên tỉnh thì nhanh hơn, và quan trọng nhất là không nên chạy xe quá nhiều– tức là xài tiền –trên đường. Cuối cùng chúng tôi quyết định rẽ vào xa lộ số 2.
“Em thích thế hơn,” tôi nói.
Andrew bảo, “Đó là vì chúng ta đã định như thế từ đầu.”
“Chúng ta sẽ không được gặp Kalispell và Havre. Và Wolf Point nữa. Em thích cái tên đó.”
“Chúng ta sẽ gặp chúng trên đường trở về nhà.”
Andrew nói câu “trở về nhà” với một vẻ vui sướng đáng ngạc nhiên đối với tôi. Tất nhiên tôi hoàn toàn nghĩ rằng chúng tôi sẽ quay về nhà sau chuyến đi, với chiếc xe của chúng tôi và cuộc đời của chúng tôi và gia đình của chúng tôi nguyên vẹn, sau đi đã đi qua biết bao dặm đường, đã trải qua biết bao chuyện trung thành và rắc rối, xích lại gần nhau hơn, nhìn xuống con đường liều lĩnh của mình. Nhưng vẫn thật là an ủi khi nghe anh ấy nói thế.
“Điều anh không thể nào hiểu được,” Andrew nói, “là làm sao em nhận được tín hiệu ấy. Phải là một thứ linh cảm mà chỉ những người mẹ mới có.”
Phần nào tôi cũng muốn tin thế thật, tự sưởi ấm mình trong khả năng linh cảm ngoại cảm kia. Phần khác tôi muốn cảnh báo Andrew - cảnh báo tất cả mọi người - đừng bao giờ dựa dẫm vào những thứ ấy.
“Điều mà em không hiểu,” tôi nói “là làm sao anh có thể nhảy qua hàng rào.”
“Anh cũng đâu có biết.”
Chúng tôi tiếp tục trò chuyện như thế, với hai đứa trẻ trên băng ghế sau, đặt hết tin tưởng vào chúng tôi, bởi chúng cũng chẳng có chọn lựa nào khác, và chúng tôi thì tin rằng mình sẽ được tha thứ, cùng với thời gian, về tất cả những điều mà trẻ con nhìn thấy và lên án trước tiên: bất cứ điều gì vô cảm, tùy tiện, bất cẩn, nhẫn tâm - những lỗi lầm vừa tự nhiên vừa cá biệt của chúng ta.