Chợ huyện Cẩm Giàng (Hải Dương) xinh như một bài thơ. Nhưng
lại là những câu thơ buồn khi tôi sực nhớ lại chuyện của “Cô hàng xén”, mà Thạch
Lam đã viết tại nơi đây. Mỗi lần qua chợ là tôi không kìm được bước chân nhẹ
gót tạt qua dãy hàng xén. Ngắm từng người bán hàng và tôi cứ mường tượng rằng
kia là cô Tâm, nọ là cô Tâm, đấy là cô Tâm và tôi là anh giáo nghèo ngày nào mê
ly cô bé ấy. Nhưng rồi hạnh phúc khuất nẻo ở nơi nào. Cô hàng xén vẫn phải chắt
chiu từng cắc, từng xu để nuôi mấy miệng ăn, rồi vẫn phải lo cho đứa em ăn học.
Mỗi lần về nhà là lại một lần thổn thức với nỗi buồn nghèo khó. Nó đeo đẳng với
những lo toan không bao giờ dứt ra khỏi cuộc đời. Tiếng thở dài nẫu ruột của
Tâm như muốn nuốt vào lòng những niềm hy vọng mơ hồ về một tương lai mông lung,
nơi xóm chợ nghèo...
Cẩm Giàng vẫn còn lưu dấu tích TỰ LỰC VĂN ĐOÀN
VƯƠNG TÂM
Hẹn hò mãi, tôi mới
được ông Đạm đón tiếp tại khu vườn trại của nhà anh em Tự lực Văn đoàn (TLVĐ),
ngay cạnh ga Cẩm Giàng, Hải Dương. Lâu nay, ông Đạm được coi là người tạm quản
lý khu đất rộng tới 2ha này, bởi gia đình ông đã mua 2000m2 đất, ở giữa khu
trang trại và đã sinh sống ở đây từ năm 1970 đến nay.
Gặp tôi, ông Đạm
cười gượng vì đã cám cảnh mấy anh nhà báo đến quấy nhiễu, nhưng lại chả có tác
dụng gì, cho dù đã có hàng chục bài báo đã lên tiếng sự chậm trễ của dự án xây
dựng Khu Lưu niệm TLVĐ. Trong lúc chờ ông đi lấy chìa khóa cổng, tôi tạt vào chợ
huyện ở gần đầu đường, như một sự tình cờ. Nhưng tôi bỗng thấy bâng khuâng làm
sao, khi hình dung cách đây hơn nửa thế kỷ, nhà văn Thạch Lam đã từng dạo bước,
với gương mặt nho nhã, luôn luôn đượm nỗi phiền muộn...
Chợ huyện Cẩm
Giàng (Hải Dương) xinh như một bài thơ. Nhưng lại là những câu thơ buồn khi tôi
sực nhớ lại chuyện của “Cô hàng xén”, mà Thạch Lam đã viết tại nơi đây. Mỗi lần
qua chợ là tôi không kìm được bước chân nhẹ gót tạt qua dãy hàng xén. Ngắm từng
người bán hàng và tôi cứ mường tượng rằng kia là cô Tâm, nọ là cô Tâm, đấy là
cô Tâm và tôi là anh giáo nghèo ngày nào mê ly cô bé ấy. Nhưng rồi hạnh phúc
khuất nẻo ở nơi nào. Cô hàng xén vẫn phải chắt chiu từng cắc, từng xu để nuôi mấy
miệng ăn, rồi vẫn phải lo cho đứa em ăn học. Mỗi lần về nhà là lại một lần thổn
thức với nỗi buồn nghèo khó. Nó đeo đẳng với những lo toan không bao giờ dứt ra
khỏi cuộc đời. Tiếng thở dài nẫu ruột của Tâm như muốn nuốt vào lòng những niềm
hy vọng mơ hồ về một tương lai mông lung, nơi xóm chợ nghèo...Tôi như mộng mị,
ngơ ngẩn, với nỗi buồn cô hàng xén ấy, nếu không có ông Đạm gọi tôi, nào có đi
không kẻo nắng. Lúc này tôi mới tỉnh cơn mơ ngày, rảo chân đi theo ông Đạm ngược
chợ đến đầu con đường mang tên Thạch Lam, người đã làm thổn thức hàng triệu con
tim bởi những nỗi buồn Cẩm Giàng, day dứt trong nỗi cô đơn.
Ông Đam và giá sách lưu giữ!
Tôi và ông Đạm
đi dọc trên còn đường nhỏ của thị trấn cắt ngang lộ Độc Lập. Người ta đặt tên
nhà văn cho con đường này từ năm 1996, có lẽ bởi tình cảm hiền hậu, hết mực yêu
thương những con người cần lao, nghèo khổ của tác giả được thể hiện trong hầu hết
những nhân vật, hay câu chuyện đã viết, đều xảy ra ở tại thị trấn ga hoang lạnh
một thời. Nó có thể nói đó là một thế giới tâm hồn cô đơn, bơ vơ được an ủi, vỗ
về. Cùng với đó con đường mang tên Thạch Lam ghi dấu một lối đi của một đường
văn, tuy thời đoạn 10 năm của TLVĐ, nhưng lại cháy sáng một sắc mầu thiên
thanh, không thể nào quên.
Mười năm, nào là
những tờ báo Phong Hóa, Ngày Nay, rồi Nhà Xuất bản Đời Nay, TLVĐ đã bồi dưỡng
và phát hiện ra không ít nhân tài văn chương cho đất nước. Mười năm với ba lần
trao giải thưởng Văn học, TLVĐ gắn bó với những cái tên như Tế Hanh, Anh Thơ,
Nguyên Hồng, Đỗ Xuân Thu, Mộng Tuyết...Cùng với đó là hàng chục cuốn tiểu thuyết
và truyện ngắn ra đời đã làm sao động đời sống văn học. bạn đọc yêu mến những
tác giả như Khái Hưng, Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thế Lữ, Xuân Diệu...và đặc biệt Thạch
Lam đã làm rơi nước mắt của bao người khi được chia sẻ trong cuộc sống. Mỗi
truyện ngắn của Thạch Lam là một bài thơ buồn trong cõi nhân gian. Tác phẩm của
ông thuộc về những người nghèo và những thân phận vất vả với những lo toan, khắc
khoải với miếng cơm manh áo hàng ngày. Có thể nói, trừ cuốn “Hà Nội ba sáu phố
phường”, còn lại tất cả truyện ngắn hay của ông đều viết về những con người ở
phố huyện Cẩm Giàng heo hút một thuở này...
Mải
nghĩ, tôi chợt suýt vấp vào một cột đá mọc bên lề đường, thì ra đó là cái mốc
báo bên trái có một lớp học mẫu giáo, và nhà Văn hóa của khu vực gần đó. Thật bất
ngờ, bên phải con đường, thui thủi một căn nhà nhỏ, đó là một cửa hàng khám bệnh
miễn phí của một ông lang nghèo của phố huyện. Vậy là, phố Thạch Lam còn hoang
vu lắm, và còn nhoi nhói những nỗi buồn quanh quất ở đâu đó, bảng lảng nhẹ tênh
những con gió rụt rè lùa tới. Mới hay, con đường dẫn vào khu nhà vườn trại, nơi
sinh hoạt gặp gỡ của các nhà văn TLVĐ ngày nào, cũng còn nhiều trắc trở lắm. Vẫn
cứ phải vòng vào đường sắt ga Cẩm Giàng. Lại có chỗ vật vã những gạch, vôi, phế
liệu hay cỏ hoang che kín dấu chân người.
Ông Đạm giờ đã
hơn tám mươi tuổi, chân đi như đếm bước vậy, lúc lúc lại dừng để cười, nhưng thực
ra để thở cho đỡ mệt. Cho dù tôi biết con đường cũng chỉ dài khoảng 320 mét, một
con số ánh xạ của đoạn đời 32 năm của nhà văn Thạch Lam. Đó cũng là một sự ngẫu
nhiên đến kỳ lạ của hai con số. Nhưng ông Đạm lại thốt lên một câu rằng, mình đã
đợi hàng chục năm nay rồi, mấy cái đận 32 năm chỉ mong mỏi cái ngày khởi công
khu tưởng niệm TLVĐ đến cháy ruột, cháy gan, mà vẫn chưa thấy đâu. Trước khi mở
cổng cho tôi vào trong ông chỉ lên bản sơ đồ quy hoạch được dựng bên đường sắt,
rồi lắc đầu tỏ ra thất vọng.
Sự thất vọng của
ông Đạm càng tô thêm một mầu đen khi cho tôi biết, ông là chủ nhân 2000 mét đất
trong khu tưởng niệm này, sẵn sàng bàn giao cho chính quyền, khi bắt tay vào dự
án. Nỗi buồn ông hoang hoải làm sao, khi chung quanh ngôi nhà, mà ông tạm làm bảo
tàng nhỏ TLVĐ, cây cỏ mọc um tùm, hoa dại côi cút mênh mông. Nhưng rồi nỗi trầm
tư cũng thoáng qua. Tôi được ông Đạm cho xem một số tài liệu, sách và ảnh lưu
trữ được tại nhà ông. Tự nhiên ông mang nợ vào thân, chả ai bảo nhưng ông lại
xuống cả ao để mò xem có còn kỷ vật gì của nhà TLVĐ đoàn rơi rớt. Có cái hộp phấn,
rồi lại có cái đĩa trầu, hay cây bút chì ngắn cụt...ông đều giữ lại biết đâu có
ngày ai cần tới. Hay có ai yêu văn chương của nhóm TLVĐ đến tặng sách, ảnh, tài
liệu ông đều trực tiếp thu nhận và bày lên. Vô hình chung, ông Đạm trở thành cụ
“Giám đốc” bảo tàng TLVĐ. Có lần con gái nhà văn Thạch Lam, là bà Nguyễn Tường Dung
từ nước ngoài về thăm lại quê, ông vui như đón người bạn hồi trẻ về vậy. Ông kể
cái hồi năm đói, 45 cách mạng cướp chính quyền bà này mới bảy tuổi, còn tham
gia hát nhi đồng cùng với mình ở thị trấn, vậy mà đều đã lên ông, lên bà cả rồi.
Nhưng ông kể buồn nhất là mộ của nhà văn Thạch Lam vẫn chưa đưa được về đây.
Nghe nói, nhà văn mất vì bệnh lao nặng, trên Hà Nội xa xôi, nên cất mộ tạm tại
nghĩa trang Hợp Thiện, quận Hai Bà Trưng. Nhưng hiện con cháu đều ở nước ngoài,
không có điều kiện chăm nom, thật ái ngại. Ông Đạm vừa nói vừa rơm rớm nước mắt.
Đường Thạch Lam!
Rồi ông
thắc thỏm kể, mình có mảnh đất ở giữa cái khu TLVĐ này như một sự tính cờ. Khu
đất ba mẫu của gia đình TLVĐ, bị bỏ hoang sau ngày tiêu thổ kháng chiến. Nhất
là khi nhà văn Thạch Lam mất năm 1942, sau đó nhà văn Nhất Linh cũng chết bên
Trung Quốc, năm 1948, bà Phán Nhu đã làm lễ cầu siêu cho các con, rồi đi tu tận
trong Sài Gòn. Vợ con của Thạch Lam cũng theo chân vào Sài Gòn sinh sống. Mảnh
đất của anh em nhà TLVĐ bị ông trưởng ga hồi đó, vào năm 1954 chiếm ở, nghiễm
nhiên là chủ nhân cho đến năm 1970. Ông Đạm đã mua lại của người này 2000 mét,
và đã ở tại đây 43 năm qua. Ngôi nhà ông xây dựng hiện chính là nhà lưu giữ những
kỷ vật của anh em nhà TLVĐ, bấy lâu nay.
Tôi ngồi bên ông
Đạm ngước nhìn lên bàn thờ, bày hình ảnh của nhóm TLVĐ, với bao nỗi rưng rưng
trong tâm cảm. Này đó là ba anh em Nhất Linh, Hoàng Đạo và Thạch Lam. Còn kia
là những Khái Hưng, Trần Tiêu, Thế Lữ, Xuân Diệu. Nhưng chân dung Thạch Lam là
trẻ nhất và ẩn giấu những nét cô đơn dâng lên từ đôi mắt. Ông Đạm ngồi thừ
trong giây lát rồi than, nếu không có căn bệnh quái ác ngày ấy, thì ông trời đã
không cướp đi một ngôi sao văn học Thạch Lam đang đến độ sáng chói. Rồi ông nhớ
về ngôi nhà cây liễu bên hồ Tây, nhỏ bé và luôn luôn lộng gió, nơi nhà văn Thạch
Lam trở về cát bụi. Tôi không ngờ ông Đạm lại có nhiều nỗi niềm đến vậy.
Chợt ông đưa tôi
xem mấy cuốn sách của nhà văn Thạch Lam được xuất bản từ những năm 40, do những
khách thập phương mang dến tặng, để làm tư liệu. Ngay sau đó, ông giở đến truyện
ngắn “Nhà mẹ Lê”, rồi nói ngôi nhà ấy đâu có xa xôi, ngay cuối phố huyện. Ông
ngồi xuống ghế, thở dài như đau khổ cho một người mẹ có đến mười một người con,
bữa đói bữa no. Nhiều hôm không có ai mướn làm việc gì thì chỉ có việc đi ăn
xin. Rồi tình cảnh đến cay đắng khi bà Lê đã phải đi xin gạo và bị chó nhà cậu Phúc
cắn nát chân, lên cơn sốt rồi chết. Người mẹ khốn khó chỉ biết kêu trời vì sao
lại để cho các con bà bị đói. Người mẹ chết đi để lại một bầy con nhỏ dại giờ
biết nương tựa vào đâu. Những đôi mắt trẻ nhỏ dõi con tầu trong đêm và mơ tưởng
tới một chân trời xa xôi, mà chẳng bao giờ mình đi tới được...Nỗi thương cảm cứ
chông chênh trong lòng tôi. Giọng nói trầm ấm của ông Đạm pha chút ngập ngừng
theo thời gian đã làm lòng tôi trĩu nặng.
Tôi bồi hồi đứng dậy rồi lang thang ra ngoài
vườn mong tìm lại bóng dáng “Ngôi nhà Ánh Sáng” ngày nào bà Nhu đã xây cho các
con tạo dựng nghiệp văn. Nhưng còn đâu nữa, cái thềm nhà ấy cũng đã bị tàn phá
sau cái ngày bom Mỹ ném ga Cẩm Giàng. Giờ đây chỉ còn lại cái ao đầy hoa súng,
với sắc đỏ tím một không gian gợi nhớ về thời quá vãng bị khuất lấp u hoài. Còn
phía xa kia là những ngôi nhà nhỏ làm kho gạo. Những vòm mài tròn trống rỗng hết
sức hoang vu. Những bầy chim sẻ làm tổ và chíu chit bay nhảy hồn nhiên, tạo nên
chùm âm thanh làm xao động những hàng cây suốt ngày ủ rũ dưới cái nắng ngột ngạt.
Quảng cảnh một thời của khu nhà ánh sáng TLVĐ tiêu điều làm sao. Ông Đạm ngồi
như đi vào cõi thiền trên giấc mộng hư vô.
Tôi lặng lẽ đi dọc
bức tường rêu, kéo dài tới con đường nhỏ dẫn ra cái ao cũ, gợi nhớ cho tôi bóng
dáng cây hoa Hoàng Lan ngày nào đã tạo hương thơm ngào ngạt cho câu chuyện tình
man mác, giữa cậu chủ Thanh ngày nào với cô hàng xóm. Tôi nghĩ đây như một tự
truyện của tác giả. Cũng như câu chuyện hai đứa trẻ vậy. “Hai đứa trẻ” chính là
nhà văn Thạch Lam khi 8 tuổi, và người chị tên là Thế, mới 9 tuổi. Hai chị em
thường được mẹ giao trông nom gian hàng bán rượu, gạo, xà phòng, và thuốc lào
buổi tối, trước cửa ga, chờ đến khi tầu từ Hà Nội về Hải Phòng hoặc ngược lại.
Niềm bâng
khuâng trong đêm ấy đã làm tôi cứ tha thẩn tìm lại gốc cây Hoàng Lan trong câu
chuyện tình ngày nào. Đâu là dấu chân của Nga, cô gái hàng xóm từng ngong ngóng
tiếng bước chân của cậu chủ trở về sau tiếng còi tầu báo hiệu tình yêu. Và đâu
là gói hoa Hoàng Lan mà Nga vẫn hái để ủ hương thơm đón cậu chủ. Tôi ước đến một
ngày nào đó, khi xây khu tưởng niệm này họ sẽ trồng một hàng cây Hoàng Lan, trên
con đường Thạch Lam để các cô gái thường đến nhặt những cánh hoa rơi thơm phức
mụi hương, trao lại cho những người bạn trai cùng sánh vai trong khu vườn này.
Khu vườn tình yêu của nhà anh em TLVĐ sẽ ngào ngạt hương bay.
Trên đường về,
tôi hỏi ông Đạm đã nghĩ gì trong lúc thiền, và có mơ về con đường 320m mang tên
Thạch Lam sẽ hoàn thành trong năm tới. Ông lắc đầu, mơ đấy ước đấy, nhưng khó lắm.
Ông dừng lại lấy khăn tay lau mồ hôi, trong cái ẩm mốc của thời gian, rồi nói mấy
câu vô thanh mà chỉ trong lòng ông rõ. Hình như hồn của người xưa bay về nương
trú trên vai người già. Tôi ở tuổi 70. Ông ở tuổi 80. Không biết đến bao giờ khu
nhà anh em TLVĐ mới xong theo dự án. Một áng mây đen lừng lững trôi về phía Nam.
Tôi và ông đi rất chậm trên con phố Thạch Lam. Ông nói gì đó thì thào, rất khẽ,
rất khẽ. Bụi đường nhè nhẹ bay lên trong ngọn gió hoang chợt lùa tới. May sao
khi đó tiếng con trẻ từ lớp mẫu giáo bên đường rộn ràng chạy ùa ra khỏi lớp.
Chúng đứng ở cổng trường ríu rít cười nói, la hét, rồi vẫy tay chào chúng tôi.
Những bàn tay nhỏ xíu. Nhưng nụ cười xinh xinh. Những đôi mắt long lanh như những
hạt ngọc vậy. Tất cả chúng cứ đi theo hai chúng tôi cho đến đầu con đường Thạch
Lam.