TRƯƠNG NAM CHI trắc ẩn cùng Dốc Thiêng
“Dốc thiêng” là một tiếng thở dài về nhân tình thế thái bằng thơ của một phụ nữ đã qua tuổi “Ngũ thập tri thiên mệnh”. Ở tuổi đó, người đ...
http://www.lethieunhon.vn/2013/08/truong-nam-chi-trac-cung-doc-thieng.html
“Dốc thiêng” là một tiếng thở dài về nhân tình thế thái bằng
thơ của một phụ nữ đã qua tuổi “Ngũ thập tri thiên mệnh”. Ở tuổi đó, người đàn
bà mang tên Trương Nam Chi đã lặng lẽ chiêm nghiệm lại cuộc đời mình với những
tiếc nuối không thể nào quay lại được: “Đêm vuốt ngược/ Dốc/ Đàn bà – Hương hoa
thầm gọi/ Ngỡ là/ Đương xuân”…. “Đêm vuốt ngược” là một thi ảnh sắc bén và độc
đáo. Những câu Lục Bát gãy nhịp tạo nên một ám ảnh Thiền, vừa mơ hồ mà vừa rõ rệt.
Ám ảnh ấy còn được nhắc lại ở “Thinh không”: Rót vào/ Khoảng lặng không gian –
Hồi chuông tịnh độ/ Nhịp nhàng khoan thai…”. Từ ám ảnh gốc ấy, cảm xúc Trương
Nam Chi đã tỏa ra nhiều chiều, trên nhiều cung bậc xao xuyến đến lạ lùng. Trước
thực tại hôm nay, Trương Nam Chi không né tránh như nhiều nhà thơ nữ khác.
TRẮC ẨN CÙNG “DỐC THIÊNG”
NGUYỄN THỤY KHA
Qua nhà thơ Nguyễn Vũ Quỳnh, tôi được gặp Trương Nam Chi và
được tặng hai tập thơ của chị: “Lạc duyên” và “Dốc thiêng”. Hóa ra Trương Nam
Chi có một lộ trình số phận tương tự như tôi. Cũng tốt nghiệp Đại học Kỹ thuật,
cũng khoác áo lính, cũng lĩnh lương thiếu tá trước khi ra quân,… và cũng làm
thơ. Tôi đọc “Lạc duyên” với lời giới thiệu của ông bạn Lê Quang Trang. Nhận ra
chất nữ tính trong thơ chị khá mạnh. Nhưng “Lạc duyên” vẫn còn nặng suy tưởng,
thi ảnh chưa bén sắc để có thể nhận ra đằng sau nó một triết lý. Song cũng đủ
thấy ấn tượng ở một giọng thơ Lục Bát khá nhuần nhuyễn. Tất cả những gì “Lạc
duyên” chưa đạt tới, đã được Chi hoàn thiện trong “Dốc thiêng” qua lời giới thiệu
rất hay của ông bạn “Bụi đời” Bùi Chí Vinh. Tôi nói với Chi: “Vinh đã viết Chi
tới bến rồi, anh còn biết viết gì nữa đây”. Nói vậy nhưng tôi vẫn không thể nào
không trắc ẩn cùng “Dốc thiêng”.
“Dốc thiêng” là một tiếng thở dài về nhân tình thế thái bằng
thơ của một phụ nữ đã qua tuổi “Ngũ thập tri thiên mệnh”. Ở tuổi đó, người đàn
bà mang tên Trương Nam Chi đã lặng lẽ chiêm nghiệm lại cuộc đời mình với những
tiếc nuối không thể nào quay lại được: “Đêm vuốt ngược/ Dốc/ Đàn bà – Hương hoa
thầm gọi/ Ngỡ là/ Đương xuân… (Dốc thiêng). “Đêm vuốt ngược” là một thi ảnh sắc
bén và độc đáo. Những câu Lục Bát gãy nhịp tạo nên một ám ảnh Thiền, vừa mơ hồ
mà vừa rõ rệt. Ám ảnh ấy còn được nhắc lại ở “Thinh không”: Rót vào/ Khoảng lặng
không gian – Hồi chuông tịnh độ/ Nhịp nhàng khoan thai…”. Từ ám ảnh gốc ấy, cảm
xúc Trương Nam Chi đã tỏa ra nhiều chiều, trên nhiều cung bậc xao xuyến đến lạ
lùng. Trước thực tại hôm nay, Trương Nam Chi không né tránh như nhiều nhà thơ nữ
khác. Chị đã nhìn thẳng vào để chia sẻ qua “Người quê ở phố”, “Góc đêm” và đặc
biệt là “Chuyện nơi đầu phố”. Có gì nghèn nghẹn, đớn đau khi đọc thơ: “Người
đàn bà/ Không nhà/ Lang thang từng ngõ phố/ Mảnh đời cơ cực vắt vai/ Bươn chải
trên hình hài/ Gấm vóc – Người đàn bà/ Bật khóc/ Tiếng nấc/ Ngấm vào lòng đất/
Chảy ra biển bạc/ Rừng vàng – Người đàn bà/ Gánh giang sơn trên vai/ Tiễn chồng
con ra trận/ Con đường bất tận/ Níu bước chân/ Quên về… Người đàn bà/ Vượt qua
chiến tranh/ Xuyên qua hòa bình/ Thấy rõ mình/ Đơn độc…”. Một bài thơ toàn
bích, một bài thơ vào hạng hay nhất viết về thân phận đàn bà trên trái đất này,
có thể sánh với thơ Zimboska (Nhà thơ nữ người Ba Lan đoạt giải Nobel gần đây).
Với những thi ảnh rất riêng, Trương Nam Chi đã khắc tạc nỗi
nhớ về một thời chiến tranh: “Những chiếc lá rủ nhau rơi xuống vỉa hè – Những
cơn giông vừa quen vừa lạ… Nhớ thiết tha tiếng tàu điện leng keng – Hoài niệm
trở về xưa cũ – Bước chân đuổi nhau vần vũ – Quay cuồng trong chiến tranh… Điệp
khúc trầm thương quay quắt tháng ngày qua… (Nhớ lắm ngày xưa ơi). Bài thơ “Nỗi
niềm tháng Tư” hoàn toàn dùng nhịp Lục Bát truyền thống, nhưng thi ảnh rất mới
mẻ, rất thi sĩ: “Tháng Tư trời đổ cơn giông/ Ai đem những sợi khói lồng vào
mây/ Tháng Tư mưa rớt vai gầy/ Tình yêu nhòa ướt những ngày không nhau/ Tháng
Tư tàn lụi mùa cau/ Đuôi con mắc sắc đàng sau ánh nhìn…”. Thơ với Trương Nam
Chi ở “Dốc thiêng” đã hóa thành cái nghiệp của chị rồi: “Thơ ca/ Biếu tặng/
Thay quà – Chữ to chữ nhỏ/ Sao mà nhẹ tênh – Nghiệp thơ nhiều lắm thác ghềnh…”.
Có thể nói qua “Dốc thiêng”, Trương Nam Chi đã trở thành nhà
thơ theo đúng nghĩa của giới chuyên môn. Khi đã hiểu “làm thơ để chết” thì “thơ
mới sống mãi”: “Xin đừng khâm liệm/ Thơ tôi – Thực ra là chết…/ Nhẹ thôi/ Lâm
sàng – Một mai/ Tỉnh giấc mộng vàng/ Từ trong ẩn ức/ Dịu dàng/ Hồi sinh!” (Hồi
sinh).