Không biết có phải câu chuyện
trái tim Đan-cô, hay hình tượng người mẹ của Macxim Gorki ám ảnh tôi từ thưở còn
là học trò, nên khi được nghe thầy Nguyễn Kim Đính giảng về văn học Nga Xô
viết, thì tôi bị mê hoặc ngay. Năm ấy, chúng tôi là nhóm sinh viên tại chức,
hầu hết đã có bằng đại học một ngành nào đấy, nhưng vì đều mê văn học, nên cùng
thi vào học khoa văn tại chức Trường đại học Tổng hợp Hà Nội. Giáo sư – Nhà giáo Nhân
dân Nguyễn Kim Đính ngày đó đương là phó
Chủ nhiệm khoa văn. Vì bận công tác quản lý, nên thầy ít có thời gian lên lớp.
Lớp chúng tôi dạo đó có may mắn được học thầy mấy chục tiết về văn học Nga Xô
viết. Lớp tại chức nào cũng vậy, các tiết học khó đi đông đủ, vì ai cũng vừa đi
học vừa phải gánh phần việc chuyên môn ở cơ quan. Ấy nhưng, hễ buổi nào thầy
Đính đến giảng, là lớp tôi lại có mặt đông đủ. Không biết có phải tác phong
nghiêm túc mà thân thiện của thầy? Hay giọng giảng say sưa và khúc triết của
thầy? Hay cảnh vật và số phận nhân vật trong các tác phẩm văn học Nga Xô viết thấm đẫm trong tâm hồn thầy, mà thầy đã truyền
cảm sang tâm hồn chúng tôi? Vì thế, riêng tôi, tôi tự thấy mình tiếp thu được ít
nhiều ánh sáng của các tác phẩm văn học Nga Xô viết, có một phần nhờ qua sự
truyền cảm của thầy Đính.
NGUYỄN KIM ĐÍNH PHONG TRẦN CHẲNG BẬN CHÚT TÌNH ĐA MANG
VŨ TỪ TRANG
Quê gốc của Giáo sư – Nhà giáo Nhân
dân Nguyễn Kim Đính ở Đức Thọ, Hà Tĩnh. Cụ thân sinh ra thầy, vốn là thầy giáo dạy học ở Thanh Hóa lâu năm, rồi gồng gánh cả
gia đình ra ngoài đó sinh sống cho tiện. Thầy Đính sinh ra và lớn lên ở thành
phố Thanh Hóa. Cả tuổi học trò của thầy gắn bó
với xứ Thanh. Thầy học tiểu học, trung học rồi ra dạy học. Khi hai mươi
lăm tuổi, thầy đã là hiệu trưởng trường cấp 2 tư thục ở huyện Quảng Xương. Nếu
yên phận với nghề gõ đầu trẻ, thì thầy đã là ông giáo đề huề ở miền quê xứ Thanh đó rồi. Với lòng
ham học, không thỏa mãn với kiến thức đã có của mình, năm 1956, Trường đại học
Tổng hợp Hà Nội chiêu sinh khóa học đầu tiên, thầy háo hức khăn gói ra thi và
đỗ điểm xuất sắc. Năm 1959, tốt nghiệp khoa văn khóa 1, thầy được nhà trường
giữ lại làm giáo viên giảng dạy. Niềm vui lớn lại đến với thầy, thầy cùng ba
giảng viên của trường được chọn cử đi Liên Xô, học sau đại học, tại trường đại
học Lô-mô-nô-xốp. Cuộc đời của thầy mở bước ngoặt từ đấy.
Nhớ lại ngày nhận quyết định của
nhà trường cử đi học tu nghiệp trên đại học tại Liên Xô, không chỉ riêng thầy Đính, mà các thầy Lưu Văn Bổng,
Hồ Sỹ Vịnh, Nguyễn Phúc cùng xôn xao vui mấy đêm không ngủ. Ngày đó, nước Nga
là một chân trời đầy ánh sáng mà bất cứ người tri thức nào cũng hằng mong ước
được tới để trau dồi và nâng cao kiến thức. Thầy Đính vẫn còn nhớ lời căn dặn
của giáo sư hiệu trưởng Trường đại học Tổng hợp Ngụy Như Kon Tum trước buổi
tiễn đoàn lên đường du học. Phải cố gắng học tốt, để rồi đem kiến thức về phục
vụ đất nước. Với tâm niệm và niềm quyết tâm như thế, mấy năm học và thực tập tại
Trường đại học Lô-mô-nô-xốp, thầy Đính luôn đạt điểm cao cho các môn học. Những
năm học ở Liên Xô, đấy là những năm tươi trẻ nhất của thầy Đính. Những bậc kỳ
vĩ văn học Nga, như Puskín, Lep Tônxtôi, Đốttôiepki, Gôgôn, Sêkhôp, rồi Macxim
Gorki, Maiacôpxki, Exênhin...đã mở những khoảng sáng chói chang và lộng lẫy cho
tâm thức lớp sinh viên khoa văn giỏi giang và chăm học. Những cánh rừng dương
mùa thu đổ vàng, những dòng sông vật vã mùa hạ, những đỉnh núi vời cao tuyết phủ...và đặc biệt là những tình cảm của
người Nga vừa nồng hậu, vừa chân tình và lãng mạn, đã khơi gợi bao cảm xúc bừng
sáng, bao nhận thức mới mẻ cho một thế hệ quyết tâm học chữ để làm người. Phải
thừa nhận, những năm đầu thập kỷ sáu mươi của thế kỷ hai mươi, những ai có may
mắn được học hành, tu nghiệp ở Liên Xô, thì đều được nâng cao trí tuệ lên rất
nhiều.
Năm 1963 về nước, trở lại mái
trường Đại học Tổng hợp thân yêu, thầy Đính được cử làm tổ trưởng, rồi phó chủ
nhiệm, rồi chủ nhiệm bộ môn văn học nước ngoài của trường. Sau mấy năm xa cách,
thầy lại được trở về với những lứa học trò thân yêu của mình. Đấy là những năm tháng
mà lớp sinh viên khoa văn Trường đại học Tổng hợp thật cao giá vì vẻ trong sáng và nhiều hoài
bão. Rất nhiều nhà văn, nhà thơ, nhà báo, nhà nghiên cứu văn học là chủ lực cho
nền văn học nước nhà sau này, khi ấy vẫn còn đang khoác áo sinh viên, ngồi
trong giảng đường lắng nghe các thầy cô giảng giải về vẻ đẹp trong sáng của ca
dao, về số phận quằn quại một nhân vật
trong tiểu thuyết, về cái trữ tình thẳm sâu trong một bài thơ Đường, Tống bất
hủ.
Đấy là thời hưng thịnh của nền
giáo dục nước nhà. Thầy ra thầy, trò ra trò. Thầy Đính rất tâm đắc với câu nói trong Luận ngữ của Khổng Tử “ Học nhi bất yếm,
hối nhân bất quyện” ( Dịch : Học không biết chán, dạy không biết mỏi). Đấy là
những năm tháng thầy dồn hết tâm sức của
mình cho công vệc giảng dạy. Ngoài những buổi lên lớp, thầy lại dành thời gian
vào thư viện đọc sách, tra cứu, sưu tầm tài liệu và viết giáo trình. Những chuyến đi điền dã
cùng sinh viên, gặp nhiều cảnh đời, những miền đất mới lạ, đem lại niềm vui thơ
thới cho thầy trò. Thầy cùng các giáo sư của bộ môn đã viết, biên soạn thành
công bộ giáo trình Lịch sử văn học Nga.
Đến nay, bộ giáo trình này của Trường đại học Tổng hợp vẫn là công trình khoa
học đĩnh đạc, tái bản nhiều lần, trong đó thầy Đính, đóng góp phần nghiên cứu về văn hào
Đôxtôiepxki, Macxim Gorki, A.N. Tônxtôi,
Lêônôp, Xêđrin.
Cuộc đời của thầy Đính luôn gắn quyện
với bao sự thăng trầm của nhà trường.
Những năm đầu của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, trường Tổng hợp là
nguyện vọng hàng đầu của các thí sinh bước vào ngưỡng cửa đại học. Vào cuộc chiến
tranh phá hoại, thầy trò gồng gánh sách vở, giáo trình về làng quê sơ tán. Những
tiết giảng bài cho sinh viên bên hầm trú ẩn. Những buổi tiễn đưa sinh viên lên
đường ra mặt trận, mãi là những kỷ niệm đẹp trong đời giảng dạy của thầy. Mỗi
khi nhắc về học sinh khoa văn của trường, thầy luôn tự hào. Thầy nói, sinh viên
khoa văn đa dạng, đa năng va đa tài. Lòng yêu tô quốc, dám hy sinh cho tổ quốc,
trong cuộc chiến tranh chống xâm lược, từ khóa 5 đến khóa 16, khoa văn có 18
liệt sỹ. Nhà văn nhà báo, liệt sỹ Chu Cẩm Phong được nhà nước phong tặng danh
hiệu anh hùng, là cựu sinh viên khoa
văn.
Khi bình tĩnh ngồi chiêm nghiệm
lại, trong nhiệm kỳ làm chủ nhiệm khoa văn của trường, thầy đã làm được ba việc mà bạn bè đồng nghiệp vẫn
thường nhắc lại. Thứ nhất, đưa môn Hán văn vào môn cơ bản bắt buộc cho các
ngành học trong khoa. Thứ hai, ngày giáo
sư Hoàng Xuân Nhị mất, thầy cùng khoa xin tổ chức tang lễ trang trọng tại giảng
đường Lê Thánh Tông, như sự tri ân và tôn vinh người thầy giáo mẫu mực, cả đời
vì trường, vì khoa. ( Nói tới trường Tổng hợp, lớp cựu sinh viên ai cũng nhớ
tới giảng đường Lê Thánh Tông, một giảng đường đại học sang trọng đầu tiên tại
Hà Nội, xây dựng từ thời Pháp thuộc, kiến trúc vòm giảng đường như một thánh đường). Thứ ba, nhân ngày kỷ
niệm ba mươi nhăm năm sáng lập khoa, thầy đã mời được thầy Nguyễn Mạnh Tường về
dự. (Thầy Tường, người thầy đầu tiên của khoa, từng hai bằng tiến sỹ văn và
luật bên Pháp, với quan điểm không hợp với thời điểm, nên bị liên lụy trong vụ
nhân văn giai phẩm. Tập chuyên luận “ Kẻ bị rút phép thông công” của thầy Tường
từng được bàn tán xôn xao trong giới trí thức trong và ngoài nước). Hình ảnh
người thầy giáo già mặc com-lê trở lại
giảng đường, nghẹn ngào ngước nhìn vòm cao giảng đường, bao buồn vui một
thưở ùa về, chợt thầy bật khóc với nỗi niềm muốn dạy học mà không được dạy một
thời.
Cuộc đời người thầy giáo, là
gắn với bao thế hệ học sinh, sinh viên của mình. Thầy Đính vẫn nhớ, người học
trò đầu tiên mà thầy hướng dẫn làm luận văn tốt nghiệp, ấy là nhà thơ Anh Ngọc
bây gìờ. Đấy là người học trò thông minh và say mê thơ ca lạ kỳ. Năm 1963, anh đã
vừa học vừa dịch thơ Lec-môn-tốp từ bản tiếng Nga. Rồi Trường Phước, người có tài hùng biện và trí nhớ tuyệt vời. Trước lớp học, Trường
Phước có thể đứng lên đọc thuộc làu cả mấy chương dài trong trường ca “ Tốt lắm
” của nhà thơ Maiacôpxki. Vì mê thơ Mai-a, Trường Phước đã làm luận văn tốt
nghiệp xuất sắc về Mai-a. Khi ra trường, với khả năng hùng biện của mình, anh
về làm biên tập và bình luận viên xuất sắc
của Đài truyền hình
Việt Nam. “ Tiếc cho Trường Phước quá,
người thông minh như thế mà mắc bệnh
hiểm nghèo, phải ra đi sớm!”. Giọng thầy Đính bùi ngùi khi nhắc tới người học
trò thân yêu của mình. Thầy Đính cũng thường hỏi thăm những học trò không được may mắn lắm khi ra
công tác. Thầy cũng rất vui khi nhắc đến những sinh viên một thời, nay đã là đồng nghiệp vững vàng
cùng khoa, như nhà thơ, giáo sư tiến sỹ
Mã Giang Lân.
Thời gian vốn không đợi ai.
Khi nghoảng lại, thấy một số đồng học, đồng nghiệp của mình ra đi đã nhiều, thầy Đính không khỏi bùi ngùi.
Một thực tế không được vui lắm, mà ít người muốn nói ra, là thế hệ sinh viên khoa văn bây giờ không có niềm say mê văn học
như những sinh viên nhiều khóa trước kia. Đời sống thực tế khắc nghiệt, hình
như đã bóp nát hoài bão, tính lãng mạn của họ. Biết đó là thiệt thòi đấy, nhưng
làm sao được khi cuộc sống vốn cuộn chảy
theo quy luật riêng của nó. Đã bước vào tuổi tám mươi, thầy vẫn cần mẫn làm
việc, vẫn đọc, vẫn học và vẫn tận tình hướng dẫn các luận văn cao học. Thầy Đính
được phong danh hiệu giáo sư, nhà giáo nhân dân, được trao tặng Huân chương lao
động hạng nhất từ lâu. Thầy càng say mê
làm việc, để không bị xa rời thực tại, để trí tuệ không bị sơ cứng, để tâm hồn
vẫn luôn xao động với những áng thơ văn
bất hủ. Con người thầy vẫn kín đáo và khiêm nhường.
Lớp học trò yêu quý thầy nhiều
khi muốn hỏi, lại không dám hỏi, vì sao thầy cứ sống lặng lẽ một mình như vậy?
Một trí tuệ mẫn tiệp, một tâm hồn đa cảm, vậy mà cho đến cuối đời, thầy vẫn
sống cuộc sống thanh đạm, vẫn căn phòng nhỏ và chiếc giường cá nhân lặng lẽ đi
về một mình. Chỉ có sách, có rất nhiều sách quý, đó là đồ vật gần gũi, là tài
sản vô giá của thầy. Nhân một buổi tiếp xúc với không khí thân mật, một học trò cũ hỏi thầy, có phải thời tu nghiệp ở Nga, bóng
dáng một cô gái Nga Na-ta-sa nào đó đã hút hết tâm trí và tình cảm cuả thầy,
nên khi về nước thầy không muốn lập gia đình? Thầy không trả lời, mà chỉ cười
đôn hậu. Biết là nhiều người con gái quý trọng thầy, thầm yêu thầy, nhưng thầy chỉ
giữ tình cảm chừng mực vậy. Một thời, có
cô gái xinh đẹp từng là sinh viên khoa văn, cứ chiều thứ bảy hàng tuần, lặng lẽ
đem bông hoa hồng tới căn phòng tập thể của thầy, tặng thầy. Thầy chỉ biết cảm ơn, với lý do còn bận nhiều công
việc quá!
Người em ruột của thầy, chị Kim
Anh, cho tôi biết, tuổi trẻ của thầy
Đính phải gác chuyện tình riêng để lo cho các em học hành. Thầy là anh cả trong
gia đình, đã kèm cặp và hy sinh tất cả cho các em ăn học thành người. Tiến sỹ toán
Hồ Thuần, người em rể và cũng là người
bạn tâm giao của thầy Đính, kể: Khi lo cho các em trong gia đình ăn học đến nơi
đến chốn, thì thầy Đính đã tuổi cao và không thiết xây dựng gia đình nữa. Nghe
biết vậy thôi, chứ tôi nghĩ mỗi người có số phận riêng. Nói theo duy tâm, ấy là
cái số. Thầy Đính cười vui kể với tôi rằng, thưở nhỏ, ngày xuân ở quê xem bói,
thì quẻ “ Phong trần chẳng bận chút tình đa mang” đã vận vào cuộc đời thầy. Tôi
thì không tin vậy, chắc hẳn thầy cũng
không tin vậy. Tôi hinh dung thầy đã dồn hết tâm sức cho các trang sách. Số
phận nhân vật trong các trang sách đã hút hồn thầy, tạo niềm vui và khổ đau cho
thầy. Vì thế, cái quan niệm đời riêng tư như nhẽ thường, thầy không thấy quan
trọng nữa. Mọi điều chỉ quan trọng với thầy, khi bàn về học và việc dạy học.
Tôi muốn hỏi thầy, rằng phương pháp học mà
thầy vẫn tâm niệm, là: bác học( học rộng ), thẩm vấn ( hỏi kĩ), thận tư ( suy
nghĩ ), minh biện ( biện luận )và đốc hành ( vận dụng, thực hành ), liệu còn
đúng với nền giáo dục hiện nay nữa không? Thầy Đính khẳng định: Đúng chứ. Và
còn đúng lâu dài!