Tết trung thu năm ấy, thiếu niên nhi đồng trong xóm rước
đèn ông sao rồi ra sân đình liên hoan phá cỗ. Thằng Quảng bắt
mẹ mặc áo đẹp lũn cũn chạy theo. Nó vô tư len vào chỗ liên hoan , bị môt thiếu niên véo tai lôi ra , quát : “Mày là
con thằng ngụy quân theo giặc không có
phần!”. Thằng Quảng khóc chạy về. Từ đó trong ánh mắt thơ ngây của nó lởn vởn
hình bóng một kẻ thù . Hình bóng ấy mỗi ngày một đậm nét qua những bài học từ vỡ lòng đến lớp một, lớp hai
thầy cô nhổi nhét vào đầu nó. Nó căm thù những người di cư vào Nam,
trong đó có bố nó, như tất cả những đứa
trẻ được giáo dục dưới mái trường xã hội chủ nghĩa quê hương tôi.
NGƯỜI ĐÀN BÀ Ở LẠI ngước nhìn những vì sao
MINH DIỆN
Đêm
qua, thằng Thứ, cháu tôi, gọi điện vào
báo tin bà Hà mất đột ngột lúc chập tối. Nó nói, mấy hôm trời trở lạnh, bà húng
hắng ho, nhưng vẫn ăn mỗi bữa được chén cơm. Chiểu hôm qua, bà bảo nấu cho bà nồi nước hương nhu. Bà tắm gội,
mặc bộ quần áo mới, rồi gọi vợ thằng Thứ lên, bảo có câu chuyện muốn nói.
Vợ
Thứ lên, bà lấy ra chiếc túi nhỏ xíu, trong có chiếc nhẫn vàng, bọc mấy lần
vải điều. Bà nói:
-Bà
có cái này từ ngày đi lấy chồng. Giờ bà để lại cho mày, giữ lấy làm của!
Vợ
thứ giãy nảy:
-Cháu
không lấy của bà đâu. Bà cứ giữ lấy!
Bà
Hà mắng:
-Mẹ
bố nhà cô! Tao giữ mang xuống mồ à?
-Bà
còn sống lâu! Sống trăm tuổi!
-Gớm,
định ăn hết của thiên hạ à?
Bà
nói thế và nắm chặt tay vợ thằng Thứ, đặt chiếc nhẫn vào lòng bàn tay nó , hai hàng
nước mắt chảy xuống hai má nhăn nheo. Rồi
bà lả người đi, mắt từ từ nhắm lại. Vợ Thứ tưởng bà Hà trúng gió, kêu ầm lên, Thứ xoa dầu, ủ ấm, nhưng bà lả dần, rồi thiếp đi, lay gọi thế nào cũng
không tỉnh . Bà Hà ra đi nhẹ nhàng,
thanh thản như vào giấc ngủ .
Hơn
sáu chục năm trước, Hà là cô gái xinh đẹp ở xóm Trại. Bố mất sớm, mẹ thủ tiết nuôi con. Nhờ tần tảo với
ruộng dâu nong tằm, mẹ con có cái ăn cái mặc.
Năm
1953, Hà vừa tròn 17 tuổi, có người làm mai làm mối, lấy anh Quỳnh, con bà Chức
ở xóm Dè. Bà Chức chồng cũng chết sớm, một mình nuôi đứa con trai, hơn Hà ba tuổi.
Cùng cảnh cùng làng,và thấy hai đứa cũng đẹp đôi, mẹ Hà nhận trầu cau. Bỏ ngõ xong,
tết mùng năm , nhà trai đi sêu một cặp cá đé, ông chú ruột Hà chê : “Sáu phần xương một phần da
ba phần thịt”. Nhà trai xin cuối năm cưới, ông
chú giao hẹn: “Đám cưới phải cỗ
bàn đàng hoàng, chứ như đi sêu là không
xong!”
Thế là Quỳnh
đăng lính. Bấy giờ làng tôi lập tề, nghĩa
là theo Tây, một số thanh niên nhảy rào, ra vùng tự do theo Việt Minh, một số
đi lính cho Tây. Quỳnh đi lính để có tiền cưới vợ.
Đám cưới
Quỳnh tổ chức cuối năm 1953, bằng tiền bốn tháng lương lính Quỳnh tích cóp được,
cỗ bàn tinh tươm. Ông chú ruột Hà, uống
rượu say, ngất nga ngất ngư, gọi vợ chồng Hà đến trước mặt. Mọi người hồi hộp
thót tim, tưởng ông lại bắt bẻ chuyện gì.
Nhưng ông tỏ ra tỉnh táo lạ thường. Ông
nói chậm rãi như rút từng lời từ gan ruột mình: “Quyền huynh thế phụ,
cha chết còn chú! Chú chỉ có một nhời,
là đã lấy nhau thì phải giữ trọn đạo vợ chồng, không được bội bạc nhau”. Ông dừng
lời, móc túi lấy chiếc nhẫn đưa cho cháu gái: “Chú nghèo, chỉ dành dụm được chỉ vàng, cho cháu làm của hồi
môn, để cháu đỡ tủi thân!”
Vợ chồng
Hà quỳ xuống lạy chú. Bấy giờ mọi người mới hiểu tấm lòng người chú ruột giành
cho đứa cháu gái mồ côi sâu đậm nhường nào.
Nó mộc mạc như gốc tre, bụi ruối quê nhà!
Cưới vợ cuối năm 1953, đầu năm sau kết thúc chiến tranh. Từ bốt Vũ Hạ, Quỳnh cởi
vội bộ quần áo lính về làng, giữa
lúc dân quân du kích đang lùng bắt ngụy quân ngụy quyền. Quỳnh chạy bán sống bán chết, bơi qua sông Cầu Nghìn trốn sang Vĩnh Bảo, ra Hải Phòng di cư vào Nam, không kịp tạm biệt ai, không biết đã bỏ lại đứa con chưa đầy năm tuần tuổi.
Hơn tám tháng sau, Hà sinh được
thằng cu bụ bẫm, giống Quỳnh như đúc. Từ
đó người ta gọi chị là chị Quỳnh, theo
phong tục làng tôi. Cuộc đời chị từ đó chịu
bao đắng cay tủi nhục vì người chồng mới
ăn ở với nhau vài ngày ấy.
Đầu tiên
chị phải ra công an xã khai báo, rồi làm
bản cam kết cắt đứt quan hệ với kẻ theo
giặc vào Nam. Bản cam kết ghi rõ: Một không nhận bưu thiếp. Hai không gửi bưu thiếp.
Ba không nghe tuyên truyền xúi giục của bọn phản động. Bốn
không liên hệ với thành phần xấu có chồng con theo giặc. Năm mỗi tuần
phải ra công an trình diện một lần, khai báo những việc có liên quan, và báo cáo kết quả chuyển biến tư tưởng của mình.
Chị Quỳnh
không biết chữ, lão Rộc- phó chủ tịch xã,
phát cho chị quyển sổ “Nhật ký tu dưỡng”. Quyển sổ có 12 trang , biểu hiện 12 tháng trong một năm, mỗi trang
chia thành 4 ô, biểu hiện bốn tuần trong một tháng, và mỗi ô có ba vòng tròn, tô ba mầu đỏ, vàng, đen. Hàng tuần chị Hà mang “sổ tu dưỡng” lên gặp Rộc.
Lão nhận xét, nếu tiến bộ thì đánh dấu cộng vào ô màu đỏ, trung bình thì đánh dấu trừ ô màu nâu, không tiến bộ thì đánh dấu hỏi vào ô màu đen. Một tháng mà bị hai
vòng đen là phải học chính trị một vài
ngày, bị bốn vòng đen phải đi lao động cải tạo một tuần. Số phận những người có chồng con đi lính cho
Pháp, sau hòa bình di cư vào Nam, ở quê tôi đều như vậy cả, nhưng chị Hà khổ
hơn vì chị còn quá trẻ và xinh đẹp.
Mười sáu, mười bảy tuổi, Hà đã xinh nhất làng. Khi có con, tuổi đôi mươi, cơ thể phát triển
hài hòa càng đẹp. Chị có khuôn mặt
trái xoan , đôi mắt đen huyền, vừa
dịu dàng mộc mạc, vừa đài các kiêu sa. Dù con nhà nông chân lấm tay bùn, nhưng trời
phú cho chị thân hình thon thả, thắt đáy
lưng ong, nổi bật những đường cong quyến rũ và nước da trắng trẻo mịn màng. Người ta nói gái một con trông mòn con mắt! Chị Hà không chỉ làm mòn con mắt, mà khiến bao
chàng trai tân làng tôi ngày ấy chết mê chết mệt!
Lão Rộc
năm ấy đã ngoài ba mươi tuổi, chưa có vợ
con, người thấp lùn, đi khạng nang khạng
nể, vì nghe đâu đã từng mắc bệnh giang
mai. Mặt lão rỗ tổ ong, đôi mắt sâu hoáy,
tương phản với cái miệng hô, hai
hàm răng vẩu vàng khè cáu thuốc lào. Rộc
vẫn tự đắc, cho rằng mình bảnh trai, danh giá nhất làng. Rộc tự phụ như vậy, vì Rộc thuộc thành phần cốt cán,
là đảng viên. Thời ấy người ta nói, ngọc còn có vết, chứ đảng viên thì không! Dẫu
nó méo mó thế nào cũng vo tròn, đánh bóng như gương.
Thân phận
những người như chị Hà khốn khổ vì sự giả
dối đó. Phải cắn răng chịu đựng sự dày vò đau đớn cả thể xác lẫn tinh thần,
không được kêu than, nói ra sự thật.
Thực chất,
khuôn mặt Rộc xấu xa một, tâm địa xấu xa mười, nhưng ai cũng phải khen lão tốt. Chị Hà phải âm thầm
chịu đựng sự bỉ ổi mang đậm bản năng thú
vật của lão.
Mỗi lần chị
Hà lên xã trình diện, lão lại cười cợt tán tỉnh. Hắn bảo: “Tôi thương cô thành
phần cơ bản, lấy phải thằng chồng chó má,
phản quốc hại dân, trên đời này không gì xấu xa bằng. Bỏ thằng khốn đó đi, tôi giúp làm lại cuộc đời!”
Rộc chõ
miệng vào mặt chị Hà cười nhăn nhở, phả
ra mùi khói thuốc lào hôi hám. Có khi
lão chộp năm ngón tay ngắn ngủn, sần sùi vào ngực chị. Chị Hà né tránh, lão ôm ghì lấy
chị, cắn vào ngực chị như con quỷ. Chị không
dám kêu, người co rúm, run rẩy, tim thót
lại, nước mắt ứa ra.
Những lần
như thế, cuốn “nhật ký tu dưỡng” của chị
được đánh dấu cộng, đỏ như máu . Từ trụ
sở xã
ra, chị bước thất thểu, rã rời. Đêm, chị ôm con khóc.
Chị Hà
không có bạn bè để chia sẻ. Chị muốn tìm những người cùng cảnh ngộ chia sẻ
nhưng bị cấm. Chị chỉ còn niềm an ủi là mẹ đẻ, mẹ chồng, đứa con thơ và người
chú ruột thịt.
Để quên bớt
nỗi cô đơn, buồn tủi và nhục nhã, chị Hà
lăn xả vào công việc. Từ cày bừa, gieo cấy, hái dâu nuôi tằm đến làm cỏ, bón phân, mò cua, bắt ốc… chị làm đầu tắt mặt tối, không
quản nắng mưa. Chị tự đày đọa mình để
nhan sắc phai tàn, khỏi ai nhòm ngó, khỏi phải chịu nỗi khiếp sợ lão Rộc đeo
bám!
Năm 1960, phong
trào xây dựng hợp tác xã nông nghiệp ở quê tôi rầm rộ bùng lên. Tiếng trống ếch rập rình. Cờ đỏ rợp trời. Đường
làng, ngõ xóm nhộn nhịp ngày đêm. Những cuộc họp ra mắt ban quản trị, kết nạp xã viên, những buổi
liên hoan vui không thể tả.
Gia đình chị
Hà, cũng như những gia đình thành phần địa chủ, phú nông, hoặc có chồng con theo giặc vào Nam không được vào hợp tác. Giờ tôi kể chuyện đó, chắc không ai tin, nhưng
sự thật là thế. Hồi ấy, xã viên hợp tác xã cũng phải có lý lịch trong
sạch, được tổ chức kết nạp đàng hoàng. Xã viên hợp tác xã là một tầng nấc để đánh giá con người trong xã
hội. Thân phận những người không được vào hợp tác xã rẻ mạt hơn kẻ sống ngụ cư thời phong kiến. Con
cháu không được vào đoàn, vào đội, không được tham gia sinh hoạt cắm trại, hội
hè, và dù có học hành giỏi giang cũng không được vào trường trung học, cao đẳng chứ đừng mơ đại học.
Trong lý
lịch mà ghi “thành phần cá thể”
thì xin một cái giấy thông hành từ quê ra Hà Nội cũng khó.
Nhà chị Hà
có hai sào ruộng nằm lọt thỏm vào giữa những thửa ruộng của hợp tác xã. Người
ta không cho mượn đường dẫn nước vào đổ ải, chị đành bỏ hoang. Việc trồng dâu
nuôi tằm cũng bị cấm làm ăn cá thể. Chị Hà đành phải xoay ra làm hàng xáo kiếm kế sinh
nhai.
Mỗi ngày chị ra chợ đong ba thừng thóc, về
cùng mẹ đẻ và mẹ chồng xay , giã sàng sảy lấy gạo bán. Một thùng thóc mười đấu,
ra được bảy đấu gạo, có khi gặp thóc non chỉ được sáu đấu rưỡi. Tiền bán gạo đủ
đong lại ba thùng thóc khác, lời tí tấm
nuôi bốn miệng ăn, tí cám nuôi lợn
và tí trấu nhóm bếp. Những ngày không làm được hàng xáo, mẹ con bà cháu ăn
cháo, hoặc ra đồng nhổ cây tầm khúc về giã nhỏ làm bánh tầm khúc ăn thay cơm.
Những đêm đông rét cắt da, bốn con người rúc trong cái ổ rơm thay chăn nệm.
Năm này tháng
nọ cuộc sống của gia đình chị Hà trôi đi chậm chạp, lặng lẽ
như những cánh bèo trên dỏng kinh Cầu Đá
tù đọng hôi thối nhày nhụa . Ba người đàn bà, một trẻ hai già cố chăm chút cho
đứa con trai của người đi xa. Thằng Quảng mỗi ngày mỗi lớn, giống bố như
đúc. Nhiều lần nó hỏi bố tên gì, đi đâu,
chị Hà và bà nội bà ngoại nói quanh, cố
dấu, để nó khỏi mặc cảm.
Tết trung thu năm
ấy, thiếu niên nhi đồng trong xóm rước đèn ông sao rồi ra sân đình liên hoan phá
cỗ. Thằng Quảng bắt mẹ mặc áo đẹp lũn cũn chạy theo. Nó vô tư len vào chỗ liên hoan , bị môt thiếu niên véo tai lôi ra , quát : “Mày là
con thằng ngụy quân theo giặc không có
phần!”. Thằng Quảng khóc chạy về. Từ đó trong ánh mắt thơ ngây của nó lởn vởn
hình bóng một kẻ thù . Hình bóng ấy mỗi ngày một đậm nét qua những bài học từ vỡ lòng đến lớp một, lớp hai
thầy cô nhổi nhét vào đầu nó. Nó căm thù những người di cư vào Nam, trong đó
có bố nó, như tất cả những đứa trẻ được
giáo dục dưới mái trường xã hội chủ nghĩa quê hương tôi.
Cuộc
chiến phá hoại của Mỹ leo thang ra miền Bắc. Bắt đầu từ cái ngày 5-8-1964 ấy,
những gia đình có người di cư vào Nam, đặc biệt phần tử ngụy quân, ngụy
quyền bị giám sát chặt chẽ hơn. Công an, dân quân , du kích ngoài việc sẵn sàng
chiến đấu phải thường xuyên bám sát từng đối tượng. Một ánh lửa lập lòe trong
đêm, một chiếc khăn tay màu trắng phơi trên sào ban ngày, đều có thể bị coi là làm ám hiệu chỉ mục tiêu
cho máy bay Mỹ ném bom. Những câu chuyện
cảnh giác đọc trên loa công cộng nhắc nhở mọi người không được lơ là ,vì những toán gián điệp biệt kích có thể nhảy dù
xuống bất cứ lúc nào.
Cuộc
chiến tranh phá hoại của Mỹ mỗi ngày một ác liệt. Những trận bom ném xuống Cầu
Nghìn, Cầu Bo và dọc tuyến đường quốc lộ số 10 liên tiếp xảy ra. Trận địa pháo phòng không mọc lên giữa những cánh đồng quanh làng.
Thanh niên trai gái đi bộ đội, thanh niên xung phong, ra mặt trận. Chiến tranh mỗi ngày một ác liệt,
sự hy sinh gian khổ không của riêng ai, đã làm mềm lòng những người lãnh đạo đảng
chính quyền quê tôi. Họ bớt phân biệt đối xử, bớt khắt khe với những người có
chồng con di cư vào Nam
như chị Hà. Chị được vào hợp tác xã, được bầu làm đội trưởng một đội sản xuất, thay người đàn ông ra mặt trận. Một ngày đầu năm 1971, chị tiễn đứa con trai vào bộ
đội, khi nó mới vừa tròn mười bảy tuổi. Đứa con của người lính ngụy trở thành
người chiến sỹ giải phóng quân. Lúc chia tay, chị Hà không cầm được nước mắt, thắt
lòng khi nghĩ một ngày nào đó hai bố con bắn chết nhau! Chị chỉ biết cầu trời
khấn Phật cho điều ấy đừng xảy ra.
Thương đứa
cháu đi vào chốn bom đạn, mẹ chồng và mẹ
đẻ chị Hà héo hon, sinh bệnh, lần lượt qua đời, bỏ lại mình chị chơ vơ như cây gáo mồ côi ở đầu bờ
ruộng rộc.
Một đêm trên
sân kho hợp tác, chị Hà nằm trên đống rơm tươi, ngửa mặt lên trời. Bầu trời đầy
sao, nhấp nháy trong sương mờ ảo. Chị có
cảm giác những vì sao đang khóc, và nước mắt các vỉ sao ướt đẫm cả bầu trời. Tiếng
khóc hòa vào tiếng kêu của bầy dế chung quanh sân kho, như một bản nhạc buồn tê
tái.
Chị nhắm mắt lại, bầu trời càng hiện ra thăm thẳm,
mang nặng tâm trạng ưu tư của chị. Đời chẳng giành cho chị chút may mắn nào. Mười
bảy tuổi lấy chồng , chưa đầy mười tám tuổi sinh con. Mười bày năm tần tảo nuôi con, nuôi mẹ đẻ, mẹ chồng. Chị
không có tuổi xuân, đúng hơn tuổi xuân bị
vùi dập trong nghèo đói, cô đơn, tủi nhục.
Chị không được học hành, nghĩ ngắn,
nhưng chị vẫn cảm thấy thân phận mình khổ
hơn nàng Kiều. ..
Chị
Hà đang mơ màng trong những suy nghĩ mông lung như thế, thì một bóng đen ập xuống
người chị. Chị nhận ra tiếng cười, mùi thuốc lào và những ngón tay sần sùi của
lão Rộc. Mười bảy năm qua, Rộc vẫn không buông tha chị, nhưng hắn vẫn không
sở hữu được chị. Trong trái tim chị,hắn vẫn chỉ là một loài cầm thú! Sẵn chiếc
nạng cào rơm, chị Hà vùng dậy vụt tới tấp vào lão Rộc. Chị vừa vụt vừa kêu thét,
khiến những người ở gần kho chạy ra. Mười
bảy năm cam chịu, lần đầu tiên chị Hà phản kháng quyết liệt như vậy. Lão Rộc vội
vã nhày qua bức tường, lủi vào bụi rậm...
Một buổi
sáng mùa đông 1972, chị Hà đang nhổ mạ
cùng mấy xã viên, thì chú ruột chị tất tưởi chạy ra đầu bờ. Ông vừa nói vừa thở
đứt quãng:
-Cháu ơi! Thằng ... Quảng... nó...
Chị
Hà buông nắm mạ hỏi:
- Nó
làm sao hả chú?
Ông chú khóc òa:
-Nó hy sinh ở Quảng Trị rồi!
Chị
Hà đứng lặng như chết trân giữa ruộng mạ. Từng cơn, từng cơn gió mùa đông bắc lạnh
cắt da cắt thịt rít lên, làm xổ tung mái tóc gần như đã bạc trắng của người phụ
nữ mới ba mươi lăm tuổi.
Từ
ngày ấy bà Hà chỉ còn nỗi khắc khoải duy
nhất là chờ tin ông Quỳnh. Nhưng năm tháng qua đi vẫn biệt vô âm tín. Ông Quỳnh
đã chết hay phiêu bạt chân trời góc biển nào
không một hồi âm.
Cách
đây vài năm, một lần về quê, thấy bà tuổi cao sức yếu, tôi mời bà về ở với thằng
Thứ, cháu tôi. Có lẽ cuộc đời bà chỉ được an ủi vài năm lúc cuối đời từ đó.
Người
ta nói,con người ta sướng nhất là khi về già được ra đi thanh thản, mà muốn được
như vậy phải ăn ở hiền lành, ba Hà là một
người như vậy.Cầu hương hồn bà dưới suối vàng bình an!