Trong một cuộc hội thảo gần đây về văn học ĐBSCL, tôi có phát
biểu: “Người ta thường chọn trung tâm văn chương ở những Cửu Long là Đồng Tháp
Mười và Rừng U Minh. Xin cho tôi có cái nhìn khác. Theo tôi, trung tâm không
phải là nơi ngồi viết và in sách, mà là nơi những chuyện kể được truyền tụng,
ngôn ngữ được sản sinh. Là nơi đề tài cốt truyện được khai thác. Cuộc sống là ở
đó, lời ăn tiếng nói là ở đó. Văn chương là ngôn ngữ, mà ngôn ngữ do người lao
động làm ra. Chuyện kể sinh động là ở trên xe đò, tàu đò, xe trâu, cộ lúa. Ngôn
ngữ hay ho là của người buôn gánh bán bưng, giữa những lồng gà vịt, heo con kêu
eng éc”. Không một nền văn học nào phát triển được nếu thiếu nguồn văn học dân
gian. “Hò Đồng Tháp”, hay đúng hơn là thơ ca dân gian Đồng Tháp, là một nguồn
vô giá chúng ta may mắn có được.
ĐỒNG THÁP vùng đất của huyền thoại nhiều chuyện kể cần được
ghi lại
LÊ VĂN THẢO
Bảy tám tuổi, trong chiến khu Tháp Mười, tôi đã chạy càn,
chống xuồng trên đồng nước, gạt lúa ma, hái ổ ong, xom chuột trong rừng tràm.
Ký ức sâu đậm nhứt trong tuổi thơ của tôi tới giờ vẫn là cánh đồng nổi tiếng
này. Mãi mãi, trong từng trang viết của tôi, trước đây và về sau này, không lúc
nào vắng bóng tiếng rì rào của đồng lúa, của cỏ năng cỏ lác, mùi bông tràm, mùi
phèn chua, cánh cò bay lả trong ánh chiều. Cho phép tôi, trong bài viết này,
không phân định rạch ròi lắm về đường biên địa lý. Tháp Mười, ngoài của tỉnh
Đồng Tháp, còn có phần của tỉnh Long An và Tiền Giang. Nhưng tỉnh ta mang chính
danh, là một vinh dự và may mắn lớn. Càng may mắn hơn cho các nhà văn, các nghệ
sĩ.
Trước tiên, tôi muốn nói về thiên nhiên Đồng Tháp, chính
thiên nhiên đã tác động đến thơ ca như thế nào. Ví như bài hát “Hồ Chí Minh đẹp
nhất tên Người” của Trần Kiết Tường. Nghe bài hát ấy, một trong những ca khúc
hay nhứt của Việt Nam, ta hiểu ra điều hiển nhiên tác giả là người sanh ra lớn
lên ở đây, cả cuộc kháng chiến chống Pháp lăn lộn trong cánh đồng này. Rồi
nhiều năm tập kết ra Bắc, niềm nhớ nhung nung nấu, chắt lọc từ trong trái tim
giai điệu bài hát, lời ca mênh mang chỉ có thể có được từ trên cánh đồng này.
Bài hát, đúng ra như một điệu hò. Không có Đồng Tháp Mười, Trần Kiết Tường
không làm được bài hát ấy.
Tôi nói thêm một chút về ca dao, hò vè, thường được gọi
chung là “hò Đồng Tháp”. Theo các nhà nghiên cứu, không hẳn điệu hò sinh ra từ
đây. Nhưng trong nhiều tên gọi, khi gọi tới tên “hò Đồng Tháp”, tên gọi được
định danh ngay. Bởi chỉ có cái mênh mang của Đồng Tháp mới gợi lên âm hưởng đó.
Âm hưởng mang dáng dấp mênh mang của cánh đồng, cuộc sống nhàn nhạ thong dong,
như nhịp chèo thuyền, không có gì vội vã. Âm hưởng cũng gợi lên cảnh thiên
nhiên hoang dã, con người với cuộc sống cần cù, chân chất bộc trực…
- Ai về Đồng Tháp xa xôi/ Cho tôi nhắn gởi
đôi lời nhớ nhung
Ai về Ngã Sáu, ấp Trung/ Cho tôi gởi nhớ về trong Tháp Mười
- Xinh tươi con gái Tháp Mười/ Tay ôm bó lúa miệng cười như hoa
Trong một cuộc hội thảo gần đây về văn học ĐBSCL, tôi có phát
biểu: “Người ta thường chọn trung tâm văn chương ở những Cửu Long là Đồng Tháp
Mười và Rừng U Minh. Xin cho tôi có cái nhìn khác. Theo tôi, trung tâm không
phải là nơi ngồi viết và in sách, mà là nơi những chuyện kể được truyền tụng,
ngôn ngữ được sản sinh. Là nơi đề tài cốt truyện được khai thác. Cuộc sống là ở
đó, lời ăn tiếng nói là ở đó. Văn chương là ngôn ngữ, mà ngôn ngữ do người lao
động làm ra. Chuyện kể sinh động là ở trên xe đò, tàu đò, xe trâu, cộ lúa. Ngôn
ngữ hay ho là của người buôn gánh bán bưng, giữa những lồng gà vịt, heo con kêu
eng éc”. Không một nền văn học nào phát triển được nếu thiếu nguồn văn học dân
gian. “Hò Đồng Tháp”, hay đúng hơn là thơ ca dân gian Đồng Tháp, là một nguồn
vô giá chúng ta may mắn có được.
Về nguồn gốc địa danh “Tháp Mười”, có nhiều cách lý giải
khác nhau, theo tôi, cách nào cũng hay cả. Đã là huyền thoại, bao giờ cũng bao
hàm mong muốn của nhân dân, ta không nên vội vàng đi tìm ý nghĩa, càng không
nên gán ghép chính trị. Bản thân cuộc sống, sông nước cây cỏ, đó là ý nghĩa lớn
nhứt.
Không chỉ thiên nhiên có những nét đặc sắc, lịch sử Đồng
Tháp cũng có những nét oai hùng không thua bất cứ nơi nào. Ngày xưa nói đi
“bưng” nghĩa là đi chiến khu, vô kháng chiến. “Bưng” là đồng Tháp Mười. Đồng
Tháp có anh hùng kháng chiến chống Pháp Võ Duy Dương vang danh một thời. Cùng
với Đốc binh Kiều, hai đền thờ hai pho tượng uy nghi còn đó. Đây cũng là
quê hương của chí sĩ Nguyễn Quang Diêu, giải thưởng của Hội ta hân hạnh được
mang tên. Đây cũng là căn cứ của Ủy ban Kháng chiến hành chánh Nam bộ trong
những năm đầu kháng chiến chống Pháp, là căn cứ của Khu ủy, Bộ tư lịnh Khu Tám
Trung Nam Bộ. Cuối năm 1929, các chi bộ An Nam cộng sản Đảng đầu tiên ra đời
tại đây. Đồng Tháp lấy làm tự hào đã sinh ra Phạm Hữu Lầu, một trong bảy đồng
chí Ủy viên Ban chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng, từng giữ chức vụ Bí thư
xứ ủy Nam bộ năm 1959.
Ở một nơi thiên nhiên bao la hiền hòa như thế, với những con
người kỳ tích như thế, nhà văn có vô số đề tài để viết. Chỉ cần với đề tài “Võ
Duy Dương với Đồng Tháp Mười”, như Ban tuyên giáo tỉnh ủy đã chủ trì biên soạn,
chúng ta đã có thể có được nhưng bộ truyện lịch sử, vở kịch, vở cải lương… Vậy
mà chúng ta chưa khai thác được bao nhiêu. Cánh đồng văn học nghệ thuật cư dân
Tháp Mười vẫn còn hoang vu lắm!
Tôi muốn nêu một trường hợp, một kinh nghiệm, cũng có thể
nói là một di sản, tuy không cách xa chúng ta lắm. Đó là cuốn “Bảy ngày trong
Đồng Tháp Mười” của học giả Nguyễn Hiến Lê.
Tác giả là người miền Bắc, vô làm việc trong Nam. Ông là nhà
nghiên cứu, dịch thuật, hiếm có sáng tác văn học như thế này. Thật ra đây cũng
là một cuốn du ký, phần nghiên cứu chiếm không nhỏ trong nội dung quyển sách.
Trước tiên ta học tập tính cần cù, nghiêm túc của ông. Trước khi viết quyển
sách nhỏ, ông đặt tên một cách khiêm tốn như thế “Bảy ngày trong ĐTM”, ông đã
nghiên cứu đủ sách Đông Tây viết về Đồng Tháp Mười. Viết xong, năm 1946, bản
thảo bị cướp lấy mất. Tám năm sau ông viết lại bản thứ hai, bản hiện ta có
trong tay. Sự kiên trì, lao tâm khổ tứ đó là điều thứ nhứt ta phải ghi nhận.
Quyển sách chỉ có non trăm trang, nhưng nói không thiếu điều gì về Đồng Tháp
Mười.
Và trên hết, là tình yêu vô bờ đối với vùng đất ông chỉ là
người ghé qua.Tuy rằng, như ông nói trong quyển sách, ông viết chỉ để bạn bè ở
miền Bắc hiểu đôi chút về miền Nam.
Nói về thủy triều, ông chỉ rõ thủy triều ở miền Nam ngày 2 lần,
lên xuống rất xa biển, lên tận Nam Vang. Không như miền Bắc chỉ một lần ngày,
do rất gần biển. Nói về vùng giáp nước, ông phân tích đó là vùng đặc biệt đông
vui, như chợ, là do ghe xuồng đậu lại đợi con nước, như nhà ga của xe lửa.
Chính tác giả, trong chuyến du ký, thật ra là làm công việc
điền địa, cụ thể là đo mực nước các sông rạch để đào kinh, dẫn thủy nhập điền.
Đó là một công việc rất ti mỉ, 15-20 phút đo một lần. Và tôi cũng xin nói thêm,
các con kinh thời ấy đến nay đều đắc dụng cả.
Ông cũng viết các giả thuyết về sự tích “Tháp Mười”, như ta
biết ngày nay. Ông kể tỉ mỉ các cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Trung Trực, Thủ Khoa
Huân, Võ Duy Dương. Ông kể chuyện đào kinh của Trần Bá Lộc. Ông dành hẳn một
chương tả về chuyện tìm vàng ở Đồng Tháp Mười, rất hấp dẫn.
Ông tả giọng hò Đồng Tháp như thế này: “Hồi trước, đi ghe,
đêm nào tôi cũng được nghe những tiếng hò như vậy. Mướn một chiếc ghe, tôi cố
tìm những người hò giỏi, vì những đêm trăng như đêm nay, trôi trên mặt nước
mênh mông, có được nghe giọng hò mới cảm thấy được hết cái buồn man mác của
trời cao sông rộng. Giọng hò đưa vút lên không, tan trong ánh trăng, tỏa trên
mặt nước. Nó là tiếng gọi từ đáy lòng con người gởi vào vũ trụ”.
Ông cũng viết về rùa rắn, lúa ma. Cả cảnh đốt đồng ông cũng
tả. Không điều gì về Đồng Tháp Mười không có trong quyển sách mỏng ấy. Và cũng
xin nhắc lại, đó là quyển sách của người ở xa, chỉ đi ghé qua, như ông đã nói
khiêm tốn ngay từ nhan đề “Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười”.
Chúng ta đã có một bài học, một kinh nghiệm. Còn lại là công
việc của chúng ta. Đồng Tháp Mười giờ đây có lẻ không còn nữa, chỉ còn trong
tâm tưởng, và như vậy trách nhiệm của chúng ta càng lớn hơn, làm sao để con
cháu chúng ta không quên mất cánh đồng này. Chúng ta miêu tả con người trong
cuộc chiến đấu mới, nhưng vẫn không quên quá khứ. Bao nhiêu vấn đề đặt ra, giữa
nông thôn và thành thị, tốc độ công nghiệp hóa, thủy điện, sân gôn, liều lượng
giữa cái cũ và cái mới.
Sau đây, xin cho phép tôi có đôi điều trao đổi với các bạn
văn tỉnh Đồng Tháp, một cách sơ lược, điểm qua ít tác phẩm tôi đọc được. Tôi sẽ
nêu thật tình cờ, không theo thứ tự trên dưới gì cả, cũng không coi đây là sự
tổng kết, đánh giá.
Trước tiên, tôi muốn nói tới hai truyện ngắn tôi đã đọc
trước đây, trong cuộc thi truyện ngắn ĐBSCL năm 2008. Đó là truyện “Con đường
đi của con trùn đất” của Kim Tuyến và “Câu chuyện ngày hôm qua” của Trọng Quí.
Truyện thứ nhứt nói về cuộc sống hiện nay của nông thôn Đồng
Tháp, cũng là nông thôn miền Nam, nơi vấn đề tam nông đang được khởi xướng,
nhưng thực tế vẫn còn đang trong quá trình mò mẫm. “Con trùn đất” là một anh
thanh niên con nhà nghèo, phận như “con giun con dế”, cả hai lần bứt ra đi làm
cuộc đổi đời nhưng đều thất bại, người yêu bỏ đi, bạn bè thất cơ lỡ vận. Nhưng
anh vẫn kiên trì, từng chút một, lần bứt phá thứ ba thì thành công. Thật ra
cũng không lớn lao gì, chỉ là anh cán bộ trung cấp nông nghiệp, nhưng dù sao
cũng có ý nghĩa đổi đời.
Truyện thứ hai xảy ra thời hiện tại, nhưng nội dung là thời
chiến tranh. Đúng ra là hồi ức chiến tranh. Một chiến sĩ đặc công được giao
nhiệm vụ đánh bom giết chết một tên quận trưởng ác ôn. Mọi chuyện diễn ra đúng
như kế hoạch, nhưng bất ngờ đến lúc giật nổ, một tiếng khóc trẻ thơ vang lên.
Trận đánh bị dừng lại, không có người chết. Hòa bình lập lại, sau mấy mươi năm,
một thanh niên Việt kiều trở về tìm gặp người chiến sĩ đặc công năm xưa ngõ lời
cám ơn, người đã tha mạng sống cho cha mình, và cả bản thân mình. Anh thanh
niên Việt kiều là đứa trẻ đã cất tiếng khóc trẻ thơ trong trận đánh năm xưa.
Hai truyện ngắn, một thời bình, một thời chiến. Đó cũng là
hai đề tài bao quát cho sáng tác văn học chúng ta hôm nay. Chúng ta miểu tả
cuộc sống trước mắt, nhưng vẫn không quên chuyện chiến tranh. Còn lâu lắm,
nhiều thế hệ về sau, cuộc chiến tranh chống Pháp chống Mỹ của chúng ra vẫn nung
nấu trong đời sống và trong văn chương.
Một tác giả nữa tôi muốn nhắc tới là Hữu Nhân. Anh làm thơ,
viết tiểu thuyết. Nhưng tôi muốn nêu ra đây một bài báo nhỏ của anh, viết năm
2002, nhân chuyến theo đội K91 lên Campuchia tìm hài cốt liệt sĩ. Đây là chuyện
thật trăm phần trăm, có tên người, thời gian, địa chỉ cụ thể. Nhưng nhiều chi
tiết khiến ta ngỡ ngàng xúc động, hơn bất cứ sự hư cấu nào. Ví như một lần bốc
mộ, anh bắt gặp một cây nến. Anh đốt lên. Sau gần ba mươi năm, ngọn nến lại
tiếp tục cháy. Đây là vấn đề tâm linh, hương hồn người quá cố. Văn chương cần
sự thật này. Xu hướng văn xuôi thế giới ngày càng thiên về loại chuyện người
thật việc thật. Người đọc không thích tô vẽ. Đồng Tháp có cả một kho tàng cho
những chuyện kể như thế này, chúng ta cần triệt để khai thác.
Truyện ngắn tiếp theo tôi muốn nhắc tới, là truyện ngắn “Còn
đó nỗi đau” của Nguyễn Phước Thảo. Vấn đề đặt ra trong truyện ngắn khá sâu sắc.
Đây là vấn đề thuộc loại “hậu chiến tranh”, là nỗi đau sẽ còn dai dẳng nhiều
năm, nhiều thế hệ về sau. Chuyện kể về đôi vợ chồng như mọi cặp vợ chồng khác.
Chỉ có điều hơi ngược lại một chút: chồng là văn nhân, vợ là cán bộ nhà nước,
đang thăng quan tiến chức. Lấy nhau nhiều năm họ vẫn chưa có con. Thật ra chị
đã một lần sẩy thai. Người chồng tưởng mình hiểu tâm hồn con người, nghĩ vợ bận
lo sự nghiệp không muốn có con. Thật ra anh không hiểu gì cả. Chị vợ chịu đựng,
không muốn nói ra điều đau đớn hơn: chị bị nhiểm chất độc da cam. Chị đành chịu
cho cảnh vợ chồng tan vỡ. Chị vợ chết, anh chồng còn lại với nỗi đau của mình,
cũng là nỗi đau của đất nước, hậu quả nặng nề của cuộc chiến tranh.
Có một tác giả tôi thấy cần phải nhắc tới, tuy anh không
phải người gốc Đồng Tháp. Nhưng anh gắn bó lâu năm ở đây, sáng tác của anh mang
hơi thở của vùng đất này. Đó là anh Trần Quốc Toàn. Truyện ngắn “Suất hát đêm
giao thừa” của anh được cả nước biết đến, mang hơi thở đặc trưng của Đồng Tháp,
một câu hát kéo dài qua hai năm chỉ có thể ở xứ mênh mang đồng nước này. Truyện
ngắn “Người quét chuồng chim” cũng là chuyện của Đồng Tháp, chuyện của con chim
sếu nổi tiếng. Truyện thật ngắn, giản dị, công việc quét chuồng chim của một cô
gái thật khiêm nhường, nhưng tình yêu của cô với con người vùng đất này thật vô
cùng lớn lao.
Kết thúc phần trao đổi các sáng tác của Đồng Tháp, tôi xin
giới thiệu một truyện ngắn khiến tôi bất ngờ trước vẻ đẹp giản dị của nó. Đó là
truyện ngắn “Hoàng hôn xanh” của Nguyễn Phạm Đình Thảo. Truyện chỉ có mấy
trang, thật ngắn, cốt truyện không éo le gay cấn, gần như là “không có gì”. Mở
đầu một cách dung dị: “Tôi vẫn còn nhớ buổi sớm mùa thu đó. Hình như trời có mưa
bong bóng…”. Và cứ thế tiếp nối. Hai đứa nhỏ trai gái nhà ở cạnh nhau, chơi
đùa, giận hờn. Rồi xa nhau, cha mẹ đôi bên phải dời nhà, cuộc sống bươn chải
làm ăn là như vậy. Năm năm sau gặp lại, cô gái đậu vào Đại học, anh con trai
vẫn vùi đầu với con trâu cái cày. Hơi một chút ngỡ ngàng, anh con trai nói:
“Mày đó hả Bê? Mày lạ quá, tao không nhìn ra”. Không có gì cả, chỉ là thời gian
trôi qua, con gái lớn trước tuổi vậy thôi. Và rồi tiếp theo: “Sau này ra
trường, mày có về đây dạy học không?”, anh con trai hỏi. Và cô gái đáp: “Có thể
tao sẽ về…”. Chỉ vậy thôi, không hứa hẹn gì cả. Nhưng ta thấy một chút bâng
khuâng, một chút tiếc nuối đối với vùng đất này, con người này. Đất và người
như nhòa làm một. Chỉ như vậy thôi. Một truyện ngắn như một lát cắt của cuộc
đời, đâu thể nói gì hơn.
Tôi xin nhắc lại, tôi chỉ nêu tên một số tác giả tình cờ đọc
được, một số ít trong nhiều truyện đáng đọc của Đồng Tháp. Tôi hoàn toàn không
có ý nêu những tác phẩm tiêu biểu, và chắc còn thiếu nhiều lắm, xin các bạn văn
Đồng Tháp thông cảm.
Sau đây tôi có đôi điều trao đổi về công việc sáng tác. Tôi
cũng là người của ĐBSCL, nhiêu năm gắn bó với vùng đất này. Vậy xin coi ý kiến
của tôi không phải là ý kiến của người ngoài.
Đầu tiên, như tôi đã nói ở trên, không một nền văn học nào
phát triển tốt nếu không có nền văn học dân gian, cùng di sản văn học của nhiều
thế hệ đi trước. Tôi thật sự không hiểu tại sao hệ thống thư viện tự nhiên biến
mất trên đất nước Việt Nam.
Trước kia, hồi còn chiến tranh mỗi quận huyện đều có thư viện, ngay trong rừng
chiến khu của chúng tôi, các cơ quan đều có thư viện. Giờ đây chúng ta chỉ có
thư viện quốc gia, dưới đó không có gì cả. Ôn cố tri tân, Hội ta cần phải có
thư viện, các nhà văn cần phải đọc, ôn lại văn của Hồ Biểu Chánh, Nguyễn Hiến
Lê, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Phúc Vân, Phi Vân, Minh Lộc, Lê Vĩnh Hòa… Có một
nhà văn đã nói: “Viết văn là bắt chước người đi trước, và tiếp tục đi xa hơn”.
Ta sẽ không viết văn tốt nếu không biết các thế hệ trước đã viết những gì.
Chúng ta cần phải phát động phong trào đọc sách thường xuyên, văn chương trong
nước và trên thế giới, tổ chức hội thảo những cuốn sách đáng chú ý. Một nhà văn
bao giờ cũng phải cập nhựt tình hình văn chương trong nước và trên thế giới,
phải biết người ta đang viết gì, tình hình văn chương trong nước và trên thế
giới như thế nào.
Ta đọc sách để trau dồi tiếng Việt. Nghe có vẻ ngược đời,
nhưng đúng là như vậy. Hằng ngày ta sử dụng tiếng Việt trong giao tiếp, thật ra
chỉ quanh quẩn trong một số ít từ. Khi viết, chúng ta sử dụng nhiều từ vựng
hơn, thường là gấp mười lần. Cho nên không cứ là người Việt là giỏi tiếng Việt.
Chúng ta phải đọc sách để làm giàu thêm từ vựng tiếng Việt.
Có ba công việc nhà văn phải làm thường xuyên, không được
ngưng nghỉ: viết, đọc và đi thực tế. Văn ôn võ luyện, một thời gian dài không
viết, bút lực sẽ cùn mằn đi. Đi thực tế sáng tác cũng vậy. Văn học gắn liền với
ngôn ngữ, nhà văn phải thường xuyên sống trong lòng nhân dân, lắng nghe tiếng
nói của nhân dân, dù là tiếng lào xào ngoài chợ, trên tàu xe.Tiếng Việt là
nguồn sống lớn nhứt cho văn chương. Việc đi đây đó, tiếp xúc với quần chúng lao
động, sẽ tạo nên một đầu óc động cho sáng tác, những đề tài cốt truyện, những ý
tưởng mới dễ nảy sinh hơn trong lúc nhà văn di chuyển.
Hội nên thường xuyên tổ chức trại sáng tác. Viết văn là công
việc cả đời, không phải vô trại mới viết. Cái chính ở trại là để anh em gặp
nhau trao đổi bàn bạc, động viên nhau viết. Môi trường bạn bè rất cần cho người
viết văn, để rồi sau đó ngồi cô đơn trước trang giấy. Năm 1963, tôi và anh Quốc
Việt, chủ tịch đầu tiên của Hội văn nghệ Đồng Tháp, dự trại sáng tác văn trong
chiến khu chống Mỹ ở rừng miền Đông. Tuy chỉ có mấy tháng tập trung viết và
trao đổi về nghề nghiệp, nhưng đến nay đã ngót nửa thế kỷ, những kỷ niệm về
trại văn ấy đối với chúng tôi hết sức sâu sắc.
Chúng ta cần sự giao lưu, không chỉ trong tỉnh với nhau, mà
phải nới rộng ra, giữa các vùng miền, khu vực. Các tỉnh biên giới phía Bắc có
sáng kiến rất hay là tập hợp từng ba tỉnh kề cận, tổ chức chung các cuộc hội
thảo, trại sáng tác, ngày thơ Việt Nam, các chuyến đi thực tế, hằng
năm có họp tổng kết đánh giá. Phải chăng ta cũng nên làm như vậy, ba tỉnh Đồng
Tháp, Tiền Giang, Long An có chung đồng Tháp Mười, hợp thành một khu vực rất có
ý nghĩa.
Chúng ta có giải VHNT chung cho ĐBSCL, một giải thường rất
đáng giá. Nhưng cũng cần hoàn thiện hơn. Ví như cần phải có một qui chế chấm
giải chung cho 13 tỉnh.
Con người cuộc sống đều sinh ra từ một vùng đất. Tên làng
tên xã, tỉnh thành ở miền Nam
thường gắn với con sông, cánh đồng. Tỉnh Đồng Tháp gắn liền với Đồng Tháp Mười,
cánh đồng rồi sẽ thành huyền thoại, thành ký ức, sẽ mãi mãi không mất đi, lưu
truyền trong thơ văn nhiều thế hệ về sau.