Ngôi nhà của ông nằm trên một con phố nhỏ yên tĩnh, nép đằng
sau một con đường trung tâm của nhộn nhịp, ồn ào. Ông đón khách, và việc đầu
tiên là giới thiệu với khách “thư phòng” của mình. Nơi đó có chiếc bàn làm việc
giản dị, hàng ngày chỉ ông và sách bầu bạn, chuyện trò là chính. Từ lúc về hưu
năm 2007 đến nay, căn phòng chỉ toàn sách này đã chứng kiến sự ra đời, ít nhất
đến thời điểm hiện tại là 3 cuốn sách của riêng ông, trong đó có 2 cuốn tiểu
thuyết. Và câu chuyện hôm nay ông nói, cũng ít nhắc về cái phần đời làm báo rất
đáng tự hào mà ông đã trải qua. Người viết cũng không nhìn thấy ông trong vai
một vị lãnh đạo báo chí, nguyên Tổng giám đốc Đài Truyền hình Việt Nam đã
nghỉ hưu. Mà nhìn thấy ông, trong hình ảnh một nhà văn với nhiều nỗi niềm thời
cuộc đau đáu đang chờ được trút lên trang giấy...
Nhà báo, nhà văn Hồ Anh Dũng: Viết là sẻ chia, trút bỏ...
BÌNH NGUYÊN TRANG
Nhà báo Hồ Anh Dũng sinh trưởng trong một gia đình giàu
truyền thống yêu nước. Ông là cháu đích tôn cụ Hồ Tùng Mậu - một người đồng chí
thân thiết của Bác Hồ. Ông cũng có hai người em trai gánh vác những vị trí quan
trọng của đất nước, là đồng chí Hồ Đức Việt, nguyên Bí thư thứ nhất Trung ương
Đoàn, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban tổ chức Trung ương Đảng khóa X và
đồng chí Hồ Ngọc Hải, nguyên Phó Chủ tịch Viện Khoa học Xã hội và Nhân văn.
Ông Hồ Anh Dũng kể, dòng họ Hồ có 4 đời liệt sĩ, từ nhỏ anh
em ông chỉ sống với các bà là chủ yếu. Việc họ hàng cũng phần lớn là những
người phụ nữ trong dòng họ quyết định, bởi những người đàn ông đã đi làm cách
mạng vắng nhà, hoặc không trở về nữa. Kế tục truyền thống gia đình, ông Hồ Anh
Dũng say sưa tham gia các hoạt động công tác đoàn thể từ ngày còn rất trẻ. Ông
từng trải qua các vị trí Bí thư Trung ương Đoàn, Phó trưởng Ban Tư tưởng
Văn hóa Trung ương, Tổng giám đốc Đài Truyền hình Việt Nam.
Mặc dù phần lớn thời gian trong cuộc đời mình, ông Hồ Anh
Dũng tham gia hoạt động chính trị, báo chí, truyền thông, nhưng ông vẫn luôn
nuôi giữ một ngọn lửa đam mê văn chương từ thuở thiếu thời. Ít ai biết rằng,
nhà báo Hồ Anh Dũng đã từng tốt nghiệp ngành ngữ văn Trường Đại học Tổng hợp
Lômônôxôp (Nga). Ban đầu ông đã lựa chọn để trở thành một nhà khoa học, và thời
thanh niên, ông đã viết một cuốn tiểu thuyết. Nhưng vì còn ít nhiều bẽn lẽn
trước làng văn, ông đã đốt bản thảo đi. Rồi cuộc đời cuốn ông theo những công
việc khác. Vẫn cống hiến cho công việc bằng trái tim nhiệt huyết, sôi nổi,
nhưng Hồ Anh Dũng luôn để dành một góc không nhỏ cho tình yêu văn chương.
Và, khi đã hoàn thành xong công việc xã hội, nghỉ hưu, ông
bắt đầu đối diện với trang giấy, và viết. Nhiều nhà văn ở tuổi của ông đã buông
bút, không viết nữa hoặc không viết được nữa, thì với ông, cuộc hò hẹn với văn
chương mới chỉ là bắt đầu. Những trang sách đầu tiên ông viết về làng Quyền - một
làng của xứ Nghệ, mang bóng dáng làng Quỳnh nơi ông sinh ra. Những số phận con
người, những câu chuyện cuộc sống, những biến cố thời cuộc, với bao buồn vui,
mất mát...
Một cuốn tiểu thuyết dày dặn và đậm đà tình người, ngỡ như
người cầm bút Hồ Anh Dũng đã mang toàn bộ sự hăm hở buổi đầu cộng với những
trải nghiệm của gần nửa thế kỷ kinh qua nhiều công việc của mình vào từng trang
viết. Xúc cảm tươi mới từ một trái tim từng trải khiến cho văn của ông có một
vẻ đẹp riêng, vừa ấm nóng, vừa sâu sắc.
Sau cuốn tiểu thuyết đầu tiên được bạn đọc đón nhận, nhà văn
Hồ Anh Dũng tiếp tục cho ra mắt độc giả cuốn tiểu thuyết thứ hai Như là
định mệnh. Một cuốn sách bề bộn nhân tình thế thái. Những trải nghiệm lớn trong
sự nghiệp làm báo, làm chính trị của mình là chất liệu tươi ròng làm nên một
tác phẩm văn học giàu lớp lang. Như là định mệnh nhấn vào những số
phận con người qua nhiều biến cố thời cuộc, lịch sử. Họ đã chịu đựng những thử
thách, sóng gió, chia lìa, bất hạnh như là định mệnh đã đóng dấu lên cuộc
đời mình.
Về cuốn tiểu thuyết thứ 2 này của Hồ Anh Dũng, nhà văn Lê
Minh Khuê nhận xét: “Văn của ông chứa linh cảm, sự lãng mạn và lòng nhân ái.
Dường như ông không nỡ làm đau một ai. Ông lùi ra xa và kể về họ, ít bình luận,
để sự việc nói thay. Khác với các tiểu thuyết mô tả thế giới bên trong con
người, phát hiện những chuyển động li ti khó nhận biết trong tâm hồn con người,
Hồ Anh Dũng tập trung mô tả thế giới bên ngoài biến động, hùng tráng với máu
lửa thời cuộc, với chiến tranh, hậu chiến và con người nhỏ bé bị nó cuốn
đi...”.
Mới đây nhất, cuốn sách thứ 3 vừa “ra lò” của nhà văn Hồ Anh
Dũng có tên gọi Chuyện làng Quỳnh. Cũng giản dị đúng như tên gọi của nó,
cuốn sách kể cho ta về những kỷ niệm gắn với cuộc đời Hồ Anh Dũng. Từ chuyện
dòng họ, gia đình, đến chuyện xóm giềng, chuyện văn nhân kim cổ có xuất xứ từ
làng Quỳnh. Viết về làng, với ông, là một cuộc trở về từ trong sâu thẳm, để
nhận biết nguồn cội, và để tự hào về mảnh đất xứ Nghệ nơi mình đã sinh ra, lớn
lên.
Trên dải đất hình chữ S này, rất hiếm những ngôi làng như
làng Quỳnh của ông. Ngôi làng nhỏ bé ấy là vùng địa linh nhân kiệt, đã sinh ra
những người con tài hoa làm rạng danh đất nước, như Hồ Sĩ Dương, Hồ Phi Tích,
Hồ Xuân Hương, Văn Đức Giai, Phạm Đình Toái, Hồ Tùng Mậu, Cù Chính Lan...
Những người viết, không hiểu sao, thường hay day dứt, hoài
niệm, thương nhớ về nơi mình sinh ra, nơi cất giữ tuổi thơ của mình. Hồ Anh
Dũng cũng vậy. Ông đã đi ra khỏi làng quê từ rất sớm. Và trong suốt cuộc đời
hoạt động xã hội sôi nổi của mình, bàn chân ông đã đi qua hơn 40 nước trên thế
giới.
Nhưng không đâu khiến ông thương nhớ bằng làng Quỳnh bé nhỏ.
Bao suy ngẫm cuộc đời đều gắn với làng. Những cuốn sách đầu tiên lấy cảm hứng
từ làng. Với nhà báo, nhà văn Hồ Anh Dũng, trở về nơi mình sinh ra chính là
cuộc trở về với những gì khởi nguyên nhất trong cuộc đời con người, là sự trở
về với bản thể, với thiên nhiên.
Tình yêu với mảnh đất nơi mình sinh ra là “cái lõi” trong
mọi câu chuyện khác của cuộc đời. Không có “cái lõi” ấy, những yêu thương khác
dường như ít nhiều là phù phiếm, là xa xỉ, trống rỗng. Con người ta, bàn chân
có đi khắp tứ hải, thì rồi cuộc trở về với tổ tiên, ông bà, cha mẹ, đất đai,
làng mạc, ruộng đồng nơi mình sinh ra vẫn là cuộc trở về đáng kể nhất. Đây còn
là cuộc trở về với tình người nữa.
Thế kỷ XXI, theo ông, sẽ là thế kỷ của những cuộc trở về.
Nhân loại sẽ quay trở về với những giá trị truyền thống, cổ điển mà vì mải mê
trên con đường đến với cái mới đôi lúc người ta đã bỏ qua, quên lãng. Giống như
không ít người hôm nay vội vã đi ra đô thị mà quên mất ngôi làng của mình.
Nhưng rồi càng đủ đầy về vật chất, càng đi xa hơn, càng thấy ký ức về ngôi làng
ám ảnh mình.
Nhân nói chuyện làng, hỏi ông chuyện làng quê của hôm nay và
ngày ông còn nhỏ có điều khi khiến ông nghĩ ngợi chăng, ông chia sẻ ngay: “Ngày
hôm nay làng đã được bê tông hóa nhiều rồi. Nhà cửa đã khang trang hơn, kiên cố
hơn. Cuộc sống của người dân tốt hơn, đó là xu thế tất yếu của phát triển.
Nhưng làng đang mất đi nhiều không gian xanh cần thiết. Và tình người ở làng,
phải chăng cũng phai nhạt đi đôi phần...”.
Về câu chuyện nông thôn trong tác phẩm văn học, nhà văn Hồ
Anh Dũng cho rằng, có rất nhiều vấn đề đang chờ ngòi bút nhà văn chạm tới.
“Xưa, tôi làm quản lý truyền hình, khi nói đến Chương trình Nông thôn, tôi bao
giờ cũng nhấn mạnh với đồng nghiệp, rằng mình phải nói những câu chuyện của
nông dân, của nông nghiệp mới là nòng cốt. Chứ đừng đưa ra những báo cáo thành
tích, hay chuyện giống lúa mới. Vấn đề phải là đời sống nông thôn, số phận
người nông dân ấy. Nhìn sang văn chương hôm nay cũng vậy. Tôi không dám bàn về
nghệ thuật viết, nhưng tôi có thể nói về việc viết gì trong tác phẩm đề tài
nông thôn. Xin thưa, có bao nhiêu vấn đề của người nông dân, của nông nghiệp mà
chưa được nhà văn khai phá. Các nhà văn của ta đang mải mê chuyện gì, tôi không
biết”.
Tôi cứ nghĩ mãi về cái câu hỏi của ông, nhà báo, nhà văn Hồ
Anh Dũng, các nhà văn của ta đang mải mê chuyện gì, mà bỏ rơi một đề tài lớn
trong một xã hội có tới hơn 80% dân số làm nông nghiệp. Và ông, trong buổi khởi
đầu cầm bút, rất khiêm nhường, không mơ trở thành một nhà văn lớn, không mơ tạo
ra những trào lưu văn học, nhưng luôn nghiêm cẩn một ý thức, phải chạm đến
những vấn đề nhức nhối của số đông nhân quần. Và ông chọn viết về nông thôn
trước tiên....
Có thể ai đó trong chúng ta sẽ tự hỏi, một người “vinh quang
đã đủ” như Hồ Anh Dũng, từng giữ những vị trí quan trọng không ít người mơ ước,
sao lúc về hưu ông không chọn cách an nhàn, điền viên chăm cây, tưới hoa, đi du
lịch, chơi đùa cùng con cháu mà lại “sa” vào cảnh viết văn khổ ải làm gì cho
mệt? Nhà văn Hồ Anh Dũng chỉ cười hiền hậu. Ông xác nhận, việc viết đúng là đày
ải thật.
Nghĩ ngợi đau đáu bao ngày, rồi ngồi vào bàn, đối diện trang
giấy như đối diện cuộc đời. Và chữ nghĩa thì không phải lúc nào cũng suôn sẻ.
Viết, rồi xóa, rồi viết. Nhọc nhằn, lao tâm khổ tứ. Nhưng ngay trong sự nhọc
nhằn ấy, nhà văn Hồ Anh Dũng cũng nhận ra rằng, việc viết chứa đầy những bí ẩn
thú vị mà chỉ khi dấn thân vào ông mới khám phá được. Ban đầu, các nhân vật
trong cuốn tiểu thuyết đã được nhà văn “vẽ đường” đi theo hướng này. Nhưng rồi
càng viết càng thấy, nhân vật của mình bắt đầu “nổi loạn”.
Họ đòi đi một hướng mới, và họ dắt ngòi bút của mình theo từ
lúc nào, không cưỡng lại được. Hóa ra, văn chương luôn có một đời sống khác,
một sự thật khác, khác hẳn với sự thật báo chí mà bao năm làm công tác quản lý
báo chí ông chiêm nghiệm được. Rằng, những kinh nghiệm, hay những nguyên tắc từ
những công việc khác chúng có thể mang tới vốn sống, chất liệu cho việc viết,
nhưng chúng không thể áp dụng vào hành động viết...
Viết, đối với nhà báo, nhà văn Hồ Anh Dũng càng không phải
cách để được mọi người biết tới. Ông đã đủ trải nghiệm về cái gọi là vinh
quang, hay sự nổi tiếng. Nói chính xác thì ông đã ở thời điểm không cần đến
những hư vinh ấy nữa. Và việc viết, với ông chỉ còn rường cột một suy nghĩ, là
được sống hết lòng với một niềm đam mê đeo bám suốt đời mà ông chưa có thời
gian, cơ hội để thực hiện.
Viết cũng là để sẻ chia, trút bỏ những tâm tư, suy ngẫm của
đời người trí thức đã thu lượm được, đã yêu thương và cả dằn vặt nữa. Và đặc
biệt nhất, là khi viết, mình đã ở bên ngoài mọi giới hạn, mọi quy luật thông
thường của đời sống. Mình được tự do nhất. Cảm giác bay bổng, hoàn toàn là
chính mình giống như chất men say, khiến cho mỗi ngày đang sống chứa đựng một
vẻ đẹp mới...