Cách đây vài năm, khi nghe tin Dương Thuấn nhận được một tài
trợ của Quỹ Fulbright sang Hoa Kỳ mấy tháng để thuyết trình về kết quả nghiên
cứu văn hoá Tày, thật tình tôi cứ nghĩ ông nhà thơ lãng tử này sang đó để ngao
du là chính. Khi trở về, Dương Thuấn say sưa kể, ông đã đi những đâu trên đất
Mỹ, sang cả Canada
du hí với bạn văn thơ, càng khiến tôi tin vào nhận định của mình. Thì chơi cũng
có ích chứ sao. Tài trợ cho nhà thơ đi chơi chưa hẳn đã là ném tiền qua cửa sổ.
Sau đó không thấy có bất cứ dấu hiệu nào cho thấy ông nhà thơ đang “trả món nợ”
tiền tài trợ, và cao hơn là món nợ với dân tộc mình. Ông cho ra đời bộ thơ
hoành tráng hơn 2.000 trang, in song ngữ Tày - Việt, là công trình đồ sộ nhất
thuộc loại này cho đến nay. Với bộ Tuyển thơ Dương Thuấn này,
ông đã xác lập hai kỷ lục Guinness Việt Nam,
một là tuyển tập thơ đầu tiên sáng tác bằng song ngữ Tày - Việt và hai là tuyển
tập thơ dày nhất Việt Nam.
Dương Thuấn tới từ Bản Hon
TẠ DUY ANH
Tôi là người biên tập và có mặt trong buổi lễ ra mắt bộ sách
và cũng nhận chút thơm lây từ những lời khen. Nhiều người ví Dương Thuấn như là
“một Raxun Gamzatốp của ViệtNam”. Ông nhã nhặn đón nhận nhưng không lấy đó làm
niềm hãnh diện. Đùng một cái, trong bữa cơm tiếp các nhà văn Mỹ sang giao lưu
với Việt Nam gần đây, ông chìa ra trước mặt tôi cuốn sách in khá sang trọng,
dày gần 600 trang, bìa cứng có tên là Văn hoá Tày ở Việt Nam và tiến
trình hội nhập thế giới. Tôi lật giở và biết đó chính là sản
phẩm của chuyến đi Hoa Kỳ, cộng với mấy năm làm việc cật lực và nghiêm túc.
Thực ra không phải đợi đến khi có tài trợ của Chương trình
Fulbright, Dương Thuấn mới bắt tay vào làm cuốn sách. Tôi vẫn nghiêng về dự
đoán Dương Thuấn đi Mỹ chơi là chính. Có chăng ông tận dụng cơ hội đứng hẳn ra
ngoài dân tộc mình, ở một vị trí thật xa, trải tầm nhìn qua một nền văn hoá đa
dạng vào loại nhất thế giới để có những nhận định khách quan về tầm vóc, sự độc
đáo của văn hoá Tày.
Bởi vì ngay từ khi ra đi từ bản Hon, Dương Thuấn đã tự nhận
về mình sứ mệnh tìm kiếm và bảo lưu những giá trị tinh hoa của văn hoá Tày và
làm cho nó được biết đến như một thành tố quan trọng của nền văn hoá Việt Nam.
Chưa thể đánh giá chính xác tầm vóc nhà thơ của ông, đơn giản vì ông đang còn
sung sức, chưa muốn dừng lại.
Nhưng đã có thể khẳng định, Dương Thuấn là người nặng lòng
nhất với việc giới thiệu ngôn ngữ Tày cho cả cộng đồng. Nhiều người làm việc
này, nhưng làm với ý thức khẳng định vẻ đẹp, sự sâu sắc, đầy thi vị của thứ
ngôn ngữ đang dần bị lãng quên, từ đó gây sự tò mò với văn hoá dân tộc Tày, thì
chỉ có thể đếm trên đầu ngón tay và Dương Thuấn nằm ở hàng đầu trong số đó.
Trở lại với cuốn sách đang là đối tượng bàn đến, có thể nói
ngay đây là một công trình văn hoá cực kỳ công phu. Dương Thuấn rõ ràng là có
tham vọng mô tả chi tiết bức tranh hoành tráng, nhiều màu sắc của văn hoá Tày ở
mức toàn cảnh. Ông không nghiên cứu, phán đoán, so sánh rồi dùng khái niệm học
thuật để gán cho một biểu hiện nào đó, vốn dĩ đã quá quen thuộc, mà ông đóng
vai người kể lại phong tục.
Trong gần 600 trang, có khoảng 50 trang mang dáng dấp khảo
cứu, cộng với khoảng gần 100 trang cho hai chương cuối viết theo kiểu “nhận
định”, còn lại là kể theo kiểu người trong cuộc hoặc người có khiếu sưu tầm kể
lại. Nhưng ông không kể tràn lan, mà kể có lớp lang, có dẫn chứng và có sự chỉ
dẫn cụ thể, với một ý định rõ ràng là làm toát lên diện mạo vừa rộng lớn, vừa
sâu xa bí ẩn của văn hoá Tày, để cuối cùng người đọc hình dung thấy cái tầm vóc
đáng nể của nền văn hoá ấy.
Cách làm này bớt đi tính hàn lâm kinh viện khô khan, có sự
hấp dẫn tự nhiên, đặt ra nhiều phỏng đoán, liên tưởng thú vị về những thứ cần
phải khám phá ngay lập tức. Bạn đọc muốn biết về kiến trúc nhà ở, trang phục
của người Tày và những hoạt động tín ngưỡng kỳ lạ của họ xem những thứ đó có
liên quan gì (hoặc quyết định gì) đến tính cách dễ nhận thấy nhất của người Tày
là mạnh mẽ, lãng mạn và cởi mở. Bạn đọc sẽ được thỏa mãn phần nào.
Hoặc như những tập tục, hoạt động gần với mê tín dị đoan về
hình thức nhưng lại có hiệu quả thực cho đời sống, có thể kiểm nghiệm như làm Pửt, làm Mẳn, Bắn
cung tiển, Độn, Pấu tha tỏ... Hiện tượng Ma gà thực chất là như thế nào? Nó là
mê tín hay có cơ sở khoa học? Hiện tượng thì mê tín nhưng tại saoCách trị ma gà chỉ
hiệu quả bằng phép thuật…
Đó chỉ là phần rất nhỏ những điều bí ẩn được Dương Thuấn kể
lại một cách hồn nhiên, tựa như đó là chuyện thường ngày của người Tày. Ngoài
ra là cả một kho tàng nghệ thuật kể chuyện và diễn xướng dân gian đầy bí ẩn như
hát Then, hát Mại xe, Khảm
hải… Đây là lĩnh vực mà Dương Thuấn nhuần nhuyễn nhất.
Ngoài ra, nói đến văn hóa Tày không thể không kể đến hàng
trăm loại lễ hội độc đáo và một vốn liếng văn hoá ẩm thực vô cùng phong phú…Cứ
như vậy công trình giống như một mâm cỗ thịnh soạn, được bày biện đơn giản nên
tạo cảm giác gần gũi với mọi thực khách.
Và như vậy là mục đích Dương Thuấn đặt ra đã hoàn thành?
Chẳng hạn như tôi, một người ngoại tộc, lấy vợ Tày nhưng khi đọc cuốn sách, tôi
vẫn thấy bất ngờ và thú vị với những mô tả phong tục. Tôi mới chỉ nghe kể về
những ông Quan lang giỏi
giang phải hát đối đáp khi đại diện nhà trai đi xin dâu, nhưng chưa bao giờ tôi
biết lời của những bài hát ấy như thế nào.
Thì đây, tôi đã được thỏa mãn. Nhà trai muốn đem được dâu ra
khỏi cửa nhà gái phải vượt qua ít nhất 15 chặng mà vật cản duy nhất là những
lời hát thách, hát đố. Chẳng hạn ở chặng một: Chặn
đường. Vật chặn là một dải lụa hồng giăng ngang đường do nhà
gái thực hiện để “chặn bước” nhà trai. Nhà trai đành dừng lại và muốn vượt qua
phải thắng nhà gái trong màn hát đối đáp. Nhà gái hát rằng:
Xin
chào tới khách lạ khác mường
Đi đâu mà đến được
chốn đây
Trai gái trông thảy
thay sáng sủa
Toàn những người tuấn
tú khôi ngô
Canh đường đây tôi
chiểu phép quan
Người tốt xin sang
đường vào bản
Người xấu thì sẽ
chẳng nói thêm
Đoàn khách này là
người lạ hay quen
Tôi xin hỏi bằng lời
chân thật.
Nhà trai đáp:
Xin
chào tới em gái nhà sang
Đi bộ mỏi dừ chân mới
đến
Thấy có gấm quý giăng
giữa đường
Thấy có lụa loan
giăng chắn lối
Không cho người ngoài
được đi vào
Từ xa đến tôi chẳng
hay cơn cớ
Cũng chẳng hay điều
trước điều sau
Xin em cất đi cho, mở
lối
Đón rể mới vào bản
lên nhà.
Nghe thế ai không muốn làm chú rể mặc dù rõ ràng là cũng vã
mồ hôi ra vì sợ? Bạn nhớ cho đây mới chỉ là một chặng, trong ít nhất 15 chặng
mà nhà trai phải vượt qua. Nhà gái đã tài, nhà trai phải có người tài hơn thì
mới mong nhà gái cho vào nhà.
Vào nhà rồi, từ động tác trải chiếu, mời ngồi, mời trà, nộp
gánh, dâng vật thiêng, lễ bái tổ, xin dâu, lễ tổ tiên, lễ nộp dâu, mừng của hồi
môn…đều dùng bằng thứ ngôn ngữ đầy lãng mạn là thơ. Nhà gái nói bằng thơ, nhà
trai đáp lại bằng thơ…thử hỏi có dân tộc nào hành lễ tác hợp cho trai gái thanh
cao như vậy.
Người Tày có những phong tục, luật lệ rất đẹp, đáng để cho
những dân tộc khác noi theo. Ví dụ như tụcma-nhét (lễ
đầy tháng cho con). Vào ngày đó những đứa trẻ lớn hơn sẽ phải “mua” bớt cái rủi
ro cho đứa bé vừa đầy tháng, để nó lớn lên khoẻ mạnh, may mắn. Đến lượt nó sau
này sẽ lại gánh bớt rủi ro cho đứa trẻ khác.
Vào gia đình một người Tày, đối tượng được đặc biệt quan tâm
là đứa trẻ. (Trong khi người Việt hay người Hán, đối tượng quan tâm nhất là
người già. Ở khía cạnh này, văn hóa Tày có nét giống văn hóa châu Âu). Dọa nạt
trẻ, dù với bất cứ mục đích gì, cũng đều không được chấp nhận. Biết thế để khi chả
may bạn được nhờ chặt thịt gà thì đừng chặt đùi và còng cánh, mà phải để nguyên
cả cái dành cho trẻ. Trong bữa ăn, nếu nó không ăn hết thì cũng chớ thò đũa
gắp, bởi đó là hành vi đáng xấu hổ.
Cũng nhờ đọc công trình của Dương Thuấn mà tôi biết người
Tày có chữ viết riêng, gọi là chữ Nôm Tày. Về sau người Pháp chế ra thứ chữ Tày
Latinh, như kiểu chữ Quốc ngữ của người Việt. Và hoá ra văn học Tày có từ rất
sớm, thậm chí vào loại sớm nhất.
Ngay cả truyện Thạch
Sanh nổi tiếng - cứ theo như Dương
Thuấn dẫn tư liệu - thì thoạt đầu viết bằng chữ Nôm Tày rồi sau đó mới dịch ra
chữ Nôm Kinh. Thú vị hơn khi biết rõ không gian văn học của truyện này là huyện
Hoà An. Hoà An bỗng thành một địa danh thật đáng tò mò, khi nó sát ngay với
thành phố Cao Bằng. Người Tày hóa ra cũng có lịch riêng, với hệ 12 con giáp
không giống cả với Việt và Hán.
Ví dụ năm con Mèo của người Kinh, là năm con Thỏ của người
Hán nhưng với người Tày lại là năm con Quạ. Năm Mùi của người Kinh thì với
người Tày là năm con Kiến. Chứng tỏ con quạ và con kiến có vị trí rất linh
thiêng trong tâm thức người Tày! Cũng theo công trình này thì người Tày biết
thuật phong thuỷ từ rất sớm, có cả một danh hiệu riêng cho người làm nghề danh
giá này.
Còn vô vàn những điều thú vị mà bạn đọc có thể tìm thấy
trong từng trang sách. Đó là nỗ lực rất lớn của Dương Thuấn với chính dân tộc
của ông và với nền văn hoá Việt Nam nói
chung, sự thú vị trên cả phương diện học thuật lẫn nghệ thuật.
Dương Thuấn tên thật là Hoàng Minh Thông, quê ở bản
Hon, xã Nà Fẳc, huyện Ngân Sơn, tỉnh Bắc Kạn…