Trần Vàng Sao là một người yêu nước. Điều này dễ dàng khẳng
định cả về nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, nghĩa trực tiếp lẫn gián tiếp, không chỉ
bởi lẽ anh đã chọn bút danh là Trần Vàng Sao, là tác giả của "Bài thơ của
một người yêu nước mình", mà còn chủ yếu là ở thế giới hình tượng nghệ
thuật và thi trình của anh gắn liền với vận mệnh của đất nước và số phận của
nhân dân. Với một quan niệm nghệ thuật thấm đẫm những ưu tư của đời sống và tư
duy nghệ thuật dường như lúc nào cũng "trục trặc" như chính cuộc sống
của người sinh ra nó, đã tạo cho thế giới nghệ thuật của anh, những đặc điểm
riêng.
Có một đất nước của Trần Vàng
Sao
PHẠM PHÚ PHONG
1.
Có khá nhiều thơ viết
về đất nước và phải thừa nhận là có nhiều bài hay, trong đó có những bài đã trở
nên cổ điển, khá phổ biến như "Đất nước" của Nguyễn Đình Thi hoặc
chương "Đất nước" trong trường ca "Mặt đường khát vọng" của
Nguyễn Khoa Điềm. Nhưng Trần Vàng Sao có một đất nước của riêng anh. Hình tượng
đất nước trong thơ Trần Vàng Sao không thấm đẫm chất sử thi như "Nước những người chưa bao giờ khuất/ Đêm đêm rì rầm trong
tiếng đất/ Những buổi ngày xưa vọng nói về" (Nguyễn Đình
Thi) và cũng không quyện chặt chất văn hóa dân gian và lịch sử như "Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn (...) Đất là nơi anh đến trường/ Nước là nơi em tắm (...) Đất
là nơi Chim về/ Nước là nơi Rồng ở" (Nguyễn Khoa Điềm), mà
đất nước trong cái ngước nhìn của Trần Vàng Sao là những gì gần gũi, cụ thể
diễn hằng ngày trong đời sống, là gió sớm mai, nắng trưa gay gắt, là mưa chiều
nặng hạt, là tiếng chim kêu, tiếng chó sủa, tiếng la mắng con của người hàng
xóm, là nỗi nhọc nhằn của mẹ của cha, là "tôi
yêu mẹ tôi áo rách/ chẳng khi nào nhớ tuổi mình bao nhiêu (...)/ mẹ tôi nuôi
tôi mười mấy năm không lấy chồng/ thương tôi nên ở góa nuôi tôi".
Thật khó tìm thấy những triết
lý cao siêu, những tri thức văn hóa lịch sử đôi khi làm ta không nhớ hết, mà
thơ anh là hơi thở thân thương của cuộc sống những người lao khổ, chưa đủ cơm
no áo ấm, của những "căn nhà dột phên không ngăn nổi gió/ vẫn yêu nhau
trong từng hơi thở/ lòng vẫn thương cây nhớ cội hoài". Tôi không biết
trong các giáo trình văn hóa Việt Nam họ dạy những gì, nhưng tôi nghĩ văn hóa
Việt không cao siêu trừu tượng, mà hết sức gần gũi, cụ thể, đó chính là văn hóa
đời sống thể hiện trong quan hệ hằng ngày, thực chất là văn hóa ứng xử. Và, vì
vậy, có thể nói, thơ Trần Vàng Sao đầy ắp những vỉa tầng văn hóa Việt/ văn hóa
nhân bản và chính vì được hấp thụ những giá trị văn hóa trầm tích lâu đời ấy,
mà ta ngẩng cao đầu để sống nên người:
tôi yêu đất nước này như
thế
như yêu cây cỏ trong vườn
như yêu mẹ tôi chịu khó chịu thương
nuôi tôi thành người hôm nay
Chỉ trong một bài thơ, anh
nhắc đi nhắc lại hơn mười lần cái mệnh đề "tôi yêu đất nước này..."
như một điệp khúc, trước khi gọi tên đất nước xót xa, cay đắng, áo rách, rau
cháo, lầm than, khôn nguôi... nhưng vẫn bắt nguồn từ căn nhà của mẹ, tấm áo vá
của cha, từ vóc dáng người em kẹp tóc thuở học trò, và nhờ những khung cảnh
thân thương ấy nuôi lớn thành người:
tôi yêu đất nước này chân
thật
như yêu căn nhà nhỏ có mẹ tôi
như yêu em nụ hôn ngọt trên môi
và yêu tôi đã biết làm người
(Bài thơ của một người yêu
nước mình)
2.
Thực chất, từ trong cội
nguồn lịch sử văn hóa dân tộc, đã hình thành nên đẳng thức: nước là của dân,
dân là của nước. Nên đất nước là của nhân dân và nhân dân của thơ anh là những
người cần lao cơm chưa đủ no, áo chưa đủ ấm, những mẹ già, những em bé, người
thợ thổi chai, thằng hề, người kéo màn... Chỉ qua những tiêu đề của các bài thơ
cũng có thể nhận ra đối tượng trữ tình mà thơ anh hướng đến là những con người
thuộc tầng lớp dưới, những con người nghèo khổ, bé mọn. Nhân dân của anh còn có
những người đã khuất bởi chiến tranh, là bộ phận chi phối như một nỗi ám ảnh
nặng nề trong tâm tưởng cả đời anh, đến nay đã vào tuổi ngoài bảy mươi, anh
dành hẳn một bài thơ dài có vóc dáng một trường ca thảng thốt kêu lên như một
nhà ngoại cảm "Gọi tìm xác đồng đội" (NXB Hội Nhà văn, 2012). Không
phải bây giờ anh mới quan tâm đến "loại" nhân dân này, mà đã từng
lướt qua "thập loại chúng sanh" trong bài "Văn bia", hoặc
đã từng dựng tượng đài "Tổ quốc ghi công" trong bài "đồng chí"
với niềm hạnh nguyện lặp đi lặp lại như một điệp khúc "mi chết thật rồi
sao", một câu hỏi không có lời đáp lại, như hỏi trời hỏi đất, hỏi quá khứ,
hỏi tương lai, hỏi tai ương chiến tranh hay hỏi chính tâm can mình thành một
lời khẳng định: "mi đã chết thật rồi/ như Nguyễn Thiết Lê Minh Trường Phạm
Bá Thuận Chế Công Việt Trần Văn Nam Nguyễn Thị Nga...". Câu thơ liệt kê
tên các liệt sĩ dài đến hụt hơi, nhưng vẫn chưa đủ tên tuổi những đồng đội đã
hy sinh, anh phải dành hơn ba mươi trang sách khổ lớn (21x29,7cm) để "Gọi
tìm xác đồng đội".
Đúng như nhan đề của tác phẩm,
mỗi đoạn, mỗi trang như một bản tin nhắn tìm đồng đội trên đài truyền hình, với
tên tuổi, địa chỉ, quê quán, nơi hy sinh, trường hợp hy sinh, địa chỉ người
thân... cụ thể đến mức có thể căn cứ vào đó mà xác minh liệt sĩ. Mỗi người có
mỗi hoàn cảnh cuộc đời, hoàn cảnh hy sinh khác nhau. Những gì còn lại sau khi
ngã xuống cũng khác nhau, người được công nhận liệt sĩ, người không. Có người
được công nhận liệt sĩ nhưng bằng "Tổ quốc ghi công" không có người
nhận phải treo ở trụ sở chính quyền địa phương. Hóa ra sự chết cũng phong phú
không kém gì sự sống. Số lượng đông đảo hơn là "bản tin" tìm kiếm của
người thân, những người mẹ, người cha, người vợ, người cậu, dì, cô, chú bác,
anh, chị em và cả bạn bè đồng đội, những người còn lại sau chiến tranh, đau đớn
đến quặn lòng gọi tìm đồng đội. Cả một tập thơ dài là một nỗi đau triền miên,
là bản tổng kết về sự hy sinh mất mát của cả một thế hệ trong lịch sử dân tộc.
Ai bảo chết là hết đâu? Nó vĩnh cửu với người đã chết nhưng vẫn còn sống mãi
trong lòng của người đang sống. Do vậy, tập thơ không khỏi gây cảm xúc nặng nề,
bởi nó được viết ra bằng máu và nước mắt của một người trong cuộc. Dường như
anh không làm thơ, mà thể hiện tâm can của mình thành một lời tưởng niệm, một
món nợ với những người đã khuất, mà người còn sống như anh phải trả, phải nhắc
cho mọi người phải khắc ghi. Có thể nói, chưa có tác phẩm thơ nào trình bày một
cách cụ thể và đông đảo nhiều trường hợp hy sinh như tác phẩm của Trần Vàng
Sao. Đọc anh, càng suy ngẫm, càng thấm thía và quý trọng cái giá trị của cuộc
sống độc lập, tự do hiện nay mà chúng ta đang có.
3.
Một quan niệm nghệ thuật
đòi hỏi phải thể hiện bằng một thi pháp tương ứng. Thơ Trần Vàng Sao thể hiện
một quan niệm về đất nước và nhân dân đã đi qua một cuộc chiến tranh với tất cả
sự dữ dội, tàn khốc, trần trụi đến mức tàn nhẫn với bao nhiêu người đã chôn vùi
sự sống và tuổi thanh xuân của mình trong đó, nhưng không phải để bi quan mà
luôn có cái nhìn ấm áp ở tương lai. Đặc điểm nổi bật trong cấu trúc thơ anh là
vào cuối bài thường dùng những câu đồng cảm "vật ngã tương giao" với
thiên nhiên, với thời tiết để soi rọi niềm tin vào sức sống của con người. Khi
thì anh tiên đoán "đến chiều trời sẽ mưa dông rất mát" (bài "Tôi
được ăn thịt"), khi thì buồn lòng "trời vẫn không mưa cho được
mát" (bài "Khoảng trống ngoài sân khấu"), hoặc "trời mưa
hoài không tạnh" (bài "Sự tích hòn bi của tôi"). Đặc điểm này
lặp đi lặp lại ở nhiều bài thơ của anh (các bài "Nhớ Ức Trai",
"Đưa vợ đi đẻ", "Buổi trưa giữa đường tôi núp mưa",
"Lục bát"…). Ngay cả bài "Hai mươi mốt muôn năm", in cuối
bài thơ dài "Gọi tìm xác đồng đội"
như một lời vĩ thanh, cuối bài anh tả: "đêm mưa không hết/ có tiếng chẻ
củi ở nhà bên cạnh", hoặc ngay trong bài "Gọi tìm xác
đồng đội", bên cạnh những dòng tin nhắn, những cái chết không toàn thây,
không tìm thấy xác, anh vẫn dừng lại với bức tranh lãng mạn về những buổi sớm
mai:
những buổi sớm mai
những buổi sớm mai thơm mùi lúa
tôi đi qua những cánh đồng đất mới cuốc lật
hai bên đường bông cỏ vừa nở
chim hót trong gió mát
và sương cũng mờ trong cây bên kia đường
em làm gì mà ngơ ngác như không thấy tôi
những buổi sớm mai
như thơ tôi
sớm mai
mặt trời mọc
như thơ tôi ở với trời đất ở với anh em bạn
bè tôi người sống người chết
thơ tôi là đời tôi là tôi đây
Tuổi Tân Tị (1941) của anh nhiều
người thành đạt, có đến gần ba mươi tác giả cùng tuổi với anh hanh thông trong
cuộc đời và sự nghiệp. Riêng anh, cuộc đời và thơ dường như không mấy suôn sẻ.
Nó như câu thơ của anh lúc nào cũng "trục trặc", không vần không
điệu, không trau chuốt về câu chữ, câu dài câu ngắn (có câu chỉ một từ, có câu
dài đến mấy chục từ, đọc muốn hụt hơi). Giọng điệu thơ anh như được truyền trực
tiếp từ đời sống. Anh viết giản đơn như nói. Nhưng điều quan trọng hơn, trong
màu xanh của cây lá, của sự sống, anh không chỉ nhìn thấy màu sắc, hình vóc mà
còn nhận ra được cả những đường gân lá, để hình dung ra diện mạo một đất nước
của riêng anh, đất nước của những người lao khổ/ những người ngã xuống trong
chiến tranh.
Tôi yêu quý con người và thơ
ca của anh, cuối bài viết nhỏ này, tôi xin thưa với anh một điều rằng: Trong
cuộc hành thân đi qua cuộc đời, mỗi người có một lối sống, có một giọng nói,
cũng như mỗi thi sĩ có một giọng điệu thơ ca. Anh đã ở vào tuổi xưa nay hiếm,
hãy cố giữ những gì mà xưa nay anh có, nhất quán như bản chất thi sĩ của anh mà
anh vẫn tự hào và tự hứa: "bây giờ cho tới cuối đời/ thì tôi vẫn cứ như
tôi thế này" (Lục bát). Cuộc sống bao giờ cũng đầy rẫy những nhũng nhiễu,
eo sèo, nên tôi biết cũng có khi anh nản lòng, nhụt chí, thậm chí hằn học, bực
bõ. Sự bực bội, nản lòng có đôi chân rất ngắn nhưng đi mãi nó cũng đến sai lầm,
dễ làm cho người khác lợi dụng, cả người tốt lẫn người xấu. Công chúng rất tinh
tường. Họ luôn đứng về phía anh. Cũng chính vì họ mà lâu nay anh cầm bút!
Nguồn: VNCA