
So sánh giữa hai giai đoạn, lúc xã hội khép cửa hạn chế chùa
chiền, nhiều sư thầy bao nhiêu năm tu hành phải chở tượng Phật, chuông mỏ trở
về nhà tu chui. Rồi có thầy hoàn tục. Xã hội ngày nay hiểu biết hơn, giống như
con ngựa được mở miếng vải che hai bên mắt tự do nhìn xung quanh. Đời sống cũng
xung túc lên. Vui sao chùa chiền, tịnh xá, am thất mọc lên như nấm sao mưa,
chùa nào cũng thênh thang (thậm chí nhiều nơi như An Giang chẳng hạn, có nhiều
ngôi chùa bỏ hoang nhưng không có sư, lại đi lo xây dựng chùa mới). Về kinh
sách, băng thuyết pháp như là lén lút lưu giữ cất dấu còn được số ít dè dặt
truyền tay nhau. Ngược lại ngày nay kinh sách được in ra tràn lan, có kiểm
duyệt mà như không có kiểm duyệt mua rất dễ dàng. Bước vô nhà sách giống đi lạc
vô khu rừng, trăm hoa đua nở. Bên cạnh sách cổ, sách dịch của mấy vị hòa thượng
tên tuổi. Các tác giả ngài H, ngài K, ngài O. Người đã nghe danh từ lâu. Cho
đến các thầy, các cư sĩ mới nổi lên gần đây. Điều đặc biệt chân lý chỉ có một
như ngón tay chỉ mặt trăng nhưng ai cũng nói ngón tay mình là chân lý…
VỊ THUỐC THƯỜNG BẤT
KHINH
NGÔ KHẮC TÀI
Chính khi chaân trôøi trôû
neân u aùm nhaát vaø khi lyù trí con ngöôøi bò ñaäp beå tan taønh thì nieàm tin
laïi böøng leân saùng choùi vaø cöùu roåi chuùng ta - Mahatma Gandhi.
I. Về một căn bệnh
thời đại:
- So sánh giữa hai giai đoạn, lúc
xã hội khép cửa hạn chế chùa chiền, nhiều sư thầy bao nhiêu năm tu hành phải
chở tượng Phật, chuông mỏ trở về nhà tu chui. Rồi có thầy hoàn tục. Xã hội ngày
nay hiểu biết hơn, giống như con ngựa được mở miếng vải che hai bên mắt tự do
nhìn xung quanh. Đời sống cũng xung túc lên. Vui sao chùa chiền, tịnh xá, am
thất mọc lên như nấm sao mưa, chùa nào cũng thênh thang (thậm chí nhiều nơi như
An Giang chẳng hạn, có nhiều ngôi chùa bỏ hoang nhưng không có sư, lại đi lo
xây dựng chùa mới). Về kinh sách, băng thuyết pháp như là lén lút lưu giữ cất
dấu còn được số ít dè dặt truyền tay nhau. Ngược lại ngày nay kinh sách được in
ra tràn lan, có kiểm duyệt mà như không có kiểm duyệt mua rất dễ dàng. Bước vô nhà
sách giống đi lạc vô khu rừng, trăm hoa đua nở. Bên cạnh sách cổ, sách dịch của
mấy vị hòa thượng tên tuổi. Các tác giả ngài H, ngài K, ngài O. Người đã nghe
danh từ lâu. Cho đến các thầy, các cư sĩ mới nổi lên gần đây. Điều đặc biệt
chân lý chỉ có một như ngón tay chỉ mặt trăng nhưng ai cũng nói ngón tay mình
là chân lý. Thiền vụt mở ra đến hơn trăm loại, cái gì cũng được gọi là thiền
nhưng bản chất của nó là gì rất khó định nghĩa. Người nói muốn đạt tới thiền
phải cắt đứt bỏ hết tư tưởng. Người khác rất đơn giản chỉ cần luôn nở nụ cười
với xung quanh. Hay là cử chỉ thân mật với ai đó cũng gọi là thiền. Đức Phật
thấu suốt việc thịnh suy lẽ vô thường, trước hay sao Phật vẫn yên lặng (chúng
ta hãy đứng trước tượng Phật quan sát, hình như thấy đức Từ phụ như đang mỉm
cười). Riêng với thời đại chúng ta thấy gì, ở đây có điều muốn trao đổi. Có
phải con người chẳng hề đơn giản với tham, sân, si, biện (hộ) nghi (hoặc) thành
(kiến) thủ (chấp) là bảy thứ chướng ngại dẫn đến tính cách rồi thành ra cái gọi
là - số - phận - con người. Trong bảy chướng ngại tham, sân, si hay được nói
đến vì nó lớn, dễ thấy, dễ trừ. Biện, nghi, kiến, thủ, xem như nhỏ không chú ý
nên khó trừ. Giống như sửa chữa chiếc thuyền, chỉ lo vá mấy lỗ thủng lớn,
thường bỏ sót những chỗ con hà đục ván mấy lỗ nho nhỏ. Do đó thuyền ra khơi
mang theo những nho nhỏ như vậy để rồi không đến bờ, gặp sóng gió to thuyền
trôi nổi không chịu đựng được.
Ít người ngờ và thấy biện, nghi,
kiến, thủ những điều lặt vặt ấy đưa người đến chỗ tự mãn, tự phụ, kiêu ngạo,
không tin ai. Về phần bên B, thay vì rộng lượng bao dung ai chẳng có sơ sót,
lầm lẫn nhưng cũng vì biện, nghi, kiến, thủ nên cũng không phục, thay vì hóa
giải nó lại trở thành oan trái kéo dài. Nhiều người như vậy nên xã hội luôn xáo
trộn, kỳ thị, phe đảng… chẳng mấy lúc được thanh thản. Rất khó lòng liệt kê hết
những tệ nạn sinh ra từ biện, nghi, kiến, thủ. Đây cũng là căn bệnh trầm kha
của thế giới, chiến tranh xảy ra do lòng tham và nguyên do nữa là ở đâu, chắc
chúng ta đã biết (chẳng hạn như cuộc chiến của Hồi Giáo). Trở lại với vấn đề
của đạo Phật. Một thời cho người vẻ bề ngoài nguội lạnh, nhưng trong tro tàn có
ủ lửa. Có thiện, có tin ba ngôi tam bảo Phật, Pháp Tăng. Ngược lại người ngày
nay thiện thì có nhưng tin thì sao với ba ngôi tam bảo. Chùa chiền mọc lên mở
rộng đón mọi người nhưng biết có tu hay không … hay đó là hình thức bên ngoài
Dường như còn nói với đức Phật - Bạch Thế Tôn, nhiệm vụ Thế Tôn đã xong xin hãy
ngồi yên đó. Đã đành xưa kia Thế Tôn có dạy cuộc đời vô thường chớ nên phô trương
nhưng nếu không phô trương thì chẳng có ai lui gót tới thiền môn. Hình như chạy
theo số lượng không chú trọng đến chất lượng. Trong số đông người đi chùa lại
có người vì tin chùa giàu nghèo vì cũng có Phật mới đi chớ không tin ở thầy. Và
cũng khá đông trog\ng lý lịch ghi là theo đạo Phật nhưng chẳng bao giờ đi chùa
do hoang mang, chẳng những nghi ngờ thầy mà nghi Phật xuất hiện mọi nơi nhưng
không phải Phật nơi nào cũng có mặt luôn. Như vậy, ta có thể mạnh dạn nói thật
điều này. Bên ngoài xum xuê vạn tượng, có phải bên trong do biện, nghi, kiến,
thủ ngầm đẩy người xa nhau, càng nặng thêm khi thị trường kinh sách, băng giảng
được tự do. Thay vì đi tìm đến đạo đức người cần phải có thầy hướng dẫn theo
dõi từ thấp lên cao. Không thầy đố mày làm nên. Người không cần tự mua kinh
sách về tìm hiểu, tự tu độc giác không cần trao đổi hỏi han ai. Đạo Phật có ưu
điểm tự do dân chủ hơn các tôn giáo khác, thầy giảng sao cũng được người nghe
được gì tùy theo căn cơ nhưng đây cũng là huyệt điểm gót chân Asin. Không có thầy
hướng dẫn tự mua kinh sách về đọc tiếp thu nhiều quan điểm nói ngược, nói xuôi
nên không ít kẻ bị tẩu hỏa nhập ma. Miệng nói huyên thuyên đạo pháp mà không
biết mình đang nói gì, nói mà không hành. Còn không thì trở nên cao ngạo thay
vì nhìn vô chân tâm mình lại hướng ra xem thường xung quanh, phê phán chỉ trích
người khác.
Những ai quan tâm đến tiền đồ
Phật giáo chắc cũng thấy được, so với ngày trước người ngày nay trình độ được
nâng cao nhưng bản ngã trái lại nặng nề hơn. Câu hỏi này chắc chúng ta tự tìm
lấy câu trả lời, Phật từ xưa cũng có nhắc nhở.
II. Từ lời Phật dạy:
Với con mắt thấu suốt các cõi,
Phật đã nhìn thấy mọi việc rõ ràng. Phật là bậc thầy về tâm lý, nên với căn
bệnh nói trên ngài đã đưa ra nhiều phương thuốc chữa trị. Trước hết Phật dạy bốn
phép nương tựa gọi là Tứ y cứ. Gồm có - y pháp bất y nhân - y nghĩa bất y ngữ -
y kinh liễu nghĩa, bất y kinh liễu nghĩa - y trí bất y thức. Đạo pháp được
truyền nhiều đời, truyền qua nhiều thầy dạy, chắc chắn nó không tránh khỏi sai
lầm, thiếu sót. Nhờ có bốn phép nương tựa người biết hướng đôi mắt mình về đâu.
Nó là thước đo quan trọng phẩm chất của người tu nhưng hình như ít ai chú ý đến
thước đo này. Quý thầy dường như mãi lo những gì trừu tượng cũng quên lãng phân
tích thấu đáo cặn kẻ tứ y cứ rất là thiết thực với cuộc đời. Trong kinh còn có
ghi lại một chuyện. Một hôm Phật du hành tới thành phố Kesaputa. Nhiều người
nghe tin kéo tới thăm Phật rồi thưa “Bạch Đức Thế Tôn, có nhiều Bà la môn, nhiều
ẩn sĩ cũng đến đây. Họ thuyết giảng lung tung rồi bài xích kẻ khác. Chúng con
hoài nghi hoang mang không biết ai nói sai, ai nói đúng sự thật”. Đại loại như
thế. Lúc ấy đức Phật hiền từ đưa ra lời khuyên. “Phải đấy các con, rất đáng là
hoài nghi. Các con đừng bị lôi cuốn trước lời nói, hay nghe lời kể lại, lời
đồn. Hay bị uy quyền của kinh điển dẫn dắt. Hay những gì có vẻ đáng tin ai đó
nói ta mới là thầy của các con. Nhưng chính con con phải tự biết cái gì sai,
xấu để xa lánh. Bất cứ ai nói gì hể nó thiện, nó tốt thì hãy nghe và chấp
nhận”. Như vậy chúng ta thấy Phật rất là công bình, Phật không tự xưng mình là
hay rồi phê phán, chỉ trích kẻ khác. Phật đã giả tỏa cho ta nỗi hoang mang hoài
nghi, nó tuy không phải là cái tội nhưng nó dẫn người tới chỗ vô minh ngã chấp.
Nếu không vứt bỏ thì không thể đi xa. Đi xa mà vẫn không va chạm tới kẻ khác.
Thật là độc đáo trong lịch sử tôn giáo, tín ngưỡng thế giới.
Chẳng có một vị giáo chủ nào như
đức Phật khi Phật dạy thêm “cũng cần xét đoán ngay cả Như Lai để hoàn toàn tin
chắc giá trị của một vị thầy mà mình đang theo. Lời khuyên của đức Phật có thể
coi đó là thông điệp của đạo. Hoàn toàn tự do để tìm con đường giải thoát đồng
thời cũng dân chủ không bài xích người khác quan điểm. Đạo Phật hoàn toàn không
có việc mới chuộng cũ vong, không có việc gặp sư phụ mới thấy sướng quá trở qua
chê sư phụ ở núi cũ quê mùa”.
III. Đến vị thuốc
Thường bất khinh
Những lời đức Phật khuyên không
phải đệ tử bên dưới hiểu hết, chấm dứt thành kiến nghi ngờ. Nếu xét kỹ đây
không có tội lỗi gì lớn chẳng qua do ngã chấp đeo bám vào thành kiến. Tâm,
thân, ý không được thanh tịnh là vì vậy. Đức Phật rất tinh tế nhìn biểu hiện
bên ngoài nhận ra ta từ sâu thẩm bên trong. Để minh họa, liên hệ thực tế với
những gì đã dạy Phật thuật lại chuyện Thường bất khinh. Hình ảnh của Bồ Tát
Thường bất khinh tạo cho người cảm xúc mãnh liệt và nghe gần gũi với cuộc sống
bất cứ thời đại nào. Thường bất khinh có nghĩa là không dám xem thường. Theo
câu chuyện kể sau khi Như Lai nhập diệt lần đầu tiên, vẫn còn trong thời tượng
Pháp. Nhưng thật rùng mình lúc đó vẫn có nhiều vị Tỳ Kheo mạn thượng, thế lực
lại rất lớn. Không tu mà cho mình tu, không chứng ngộ cho là chứng ngộ, không
giữ đạo hạnh giới luật, lôi kéo tín đồ nhẹ dạ, chia rẽ nội bộ. Nhưng có một vị
Tỳ Kheo khi gặp những người ấy, vẫn chấp tay tán thán “Tôi không dám khinh
thường các vị, tất cả rồi ai cũng sẽ thành Phật. Các vị cũng sẽ thành Phật”.
Nghe những lời tán thán ấy, do tâm bất tịnh, lại làm việc xui quấy nhiều kẻ đâm
ra nhột nhạt, không biết đây có phải là lời nói thật, nên họ nổi giận “Ông là
ai, làm sao biết ta sẽ thành Phật. Ta không cần lời nói hư vọng”. Qua bao năm
vị Bồ Tát cứ như vậy chẳng những bị thiên hạ chưởi mắng, còn bị đánh bằng gậy,
bị ném đá xua đuổi, Bồ Tát vẫn một mực. Gặp ai khoác áo tu hành cũng đều tán
thán “Rồi đây ai cũng sẽ thành Phật”. Vì cứ nói mãi như vậy nên những kẻ kiêu
mạng đặt cho Bồ Tát biệt hiệu Thường bất khinh: Ngài là vị Bồ Tát đặc biệt
trong Hội Pháp Hoa và làm pháp hội sáng ngời lên pháp hoa diệu diệu thâm thâm. Ai
có đọc kinh này chắc là cũng hiểu Bồ Tát Thường Bất Khinh nhờ có mấy đức tính -
đức tin - nhẫn nhục, chân thật không khinh, do đó Bồ Tát nỗi lên qua bốn mặt.
Tín, Trí, Hạnh, Quả. Tín là niềm tin vào pháp vào con người. Trí chân thật để
hiểu mình và hết thẩy chúng sinh đều có sẵn Phật tín. Niềm tin và trí huệ dẫn
tới hạnh nguyện dù bất cứ nơi đâu, bất cứ lúc nào, bất cứ gặp ai cũng nói điều
thiện, điều tốt lành, ca ngợi “Tôi luôn tôn trọng quý vị không dám xem thường.
Tại sao. Tại vì tất cả, rồi quý vị ai cũng sẽ thành Phật”. Vào quả chính đức
Phật thích ca mâu ni là Bồ Tát Thường bất khinh của ngày xưa và ngài còn được
gặp nhiều vị Phật nữa. Từ trong kinh điển chúng ta liên tưởng đến thực tại.
Thời đại ngày nay chúng ta học
tập gì qua hình ảnh Bồ Tát Thường bất khinh. Có phải thời đại của chúng ta đang
mắc căn bệnh trầm kha như đã nói ở phần mở đầu. Một thời đại đầy xáo trộn chạy
theo vật chất, nghèo giàu xa cách, tri thức cao ngạo ích kỹ tham lam. Khoa học
kỹ thuật tìm đến từng nhà đầy đủ tiện nghi để rồi người như sống trong ốc đảo,
nhà ai nấy biết chẳng ai đi lại. Đây là những tháng ngày con người mang đầy
thành kiến nghi ngờ lẫn nhau. Chính chúng ta cũng có tham vọng làm thức tỉnh
người khác ra khỏi sự mê muội bằng cách phê phán. Có thể người sẽ giật mình khi
nghe những lời nói nghiêm khắc “Tại sao sống tham lam, ích kỷ, bộ không nghĩ
đến cái chết, chẳng có gì tồn tại ở đời
này.” Nhưng cách này chỉ hiệu quả với một số người thôi, giống như nhà tù mở ra
tưởng để răn đe, cuối cùng nhà tù nào cũng đầy tội nhân. Qua Bồ Tát Thường Bất
Khinh, hình ảnh ngài nó có vẻ nghịch lý chúng ta vẫn học ở ngài. Thay vì tham
vọng ta học theo ngài sự vững chải niềm tin, chân thật, nhẫn nhục, bất khinh.
Ta xui theo dòng tự nhiên, sự vận hành tâm lý bình thường của con người. Sự
thân ái khen ngợi bao giờ cũng thích hợp hơn là chỉ trích (Nhất là với những
người ít được ai khen). Trong y học người ta biết tới nhiều trường hợp một số
mắc bệnh ung thư sau một thời gian trở lại khám bác sĩ ngạc nhiên thấy khối u
tự nhiên biến mất. Hỏi ra mới biết thay vì buồn rầu người bệnh trái lại vui
tươi quên mình, đi lo giúp đỡ những kẻ cùng hoàn cảnh. Ở ngành giáo dục cũng đã
bắt đầu nhận ra, trong việc phát triển trẻ em sự khen ngợi có hiệu quả hơn là
sự trừng phạt. Lời khen làm người có cảm giác hạnh phúc mở rộng tâm hồn. Tâm
hồn người dù có đóng chặt cửa như thế nào sự gần gũi chân thật động viên rồi
cũng sẽ mở rộng đón lấy Phật tính.
Mỗi năm có một mùa xuân về nhưng
do cuộc đời đầy trái ngang buồn phiền, thành kiến, hành xử của ta nên mùa xuân
gượng gạo không được vui. Nhưng nếu chúng ta quy y theo pháp hoa hạnh của Bồ
Tát Thường Bất Khinh. Tâm thức thành kiến ta cởi bỏ hết nhẹ nhàng như đóa sen
nở, người cùng nhau sống hòa điệu thế giời bất khinh. Có phải đây là vị thuốc
chữa tâm bệnh cho chúng ta để rồi thay vì mỗi năm đón một lần xuân về, nay bốn
mùa đều là mùa xuân vui không tàn phai.
Khúc Vĩ Thanh cho Thường bất khinh.
Nước mời trăng hiện diện?
Trăng gởi nước bóng mình?
Nước Trăng cùng “biểu diễn”!
Cho tình ai lênh đênh!