Khoảng mươi mười lăm năm trở lại đây, nhờ xã hội trở nên cởi
mở hơn nên sự giao lưu về đời sống tinh thần được gia tăng, sách dịch ngày càng
đa dạng, càng nhiều. Nhưng trong cảnh phát triển xô bồ của đời sống hôm nay,
không ít loại sách dịch bị giảm chất lượng, đặc biệt là sách văn học và nhất là
thơ. Dường như, nhà xuất bản nào cũng để lọt sách dịch không đạt chất lượng,
rất nhiều khâu bị lỗi. Ngay cả những nơi từng có uy tín cao nhưng bây giờ nhìn
kỹ vào chất lượng sách dịch được in ra vẫn thấy gợn không ít sạn. Hơn nữa, xã
hội hiện nay cũng đã trở nên cởi mở và tinh tường hơn đối với các dịch phẩm,
khiến ngay cả những dịch giả nổi tiếng nhất khi công bố tác phẩm của mình cũng
phải thận trọng vì dễ bị đối mặt với những khen chê rất khác nhau...
TẢN MẠN VỀ THƠ DỊCH
LA VĂN TIẾN
1. Tôi cũng không rõ là có nên dùng cụm từ
“đội ngũ những người dịch văn học” hay không, bởi lẽ, phần đông những người
dịch văn học hiện nay đều mạnh ai nấy làm, theo nhu cầu và năng lực cá nhân,
manh mún, nhỏ lẻ. Dịch văn học không hẳn là chuyển ngữ. Đó là một sự sáng tác
lại. Với thơ, 80% chất lượng phụ thuộc vào người dịch. Bất kỳ một nhà thơ trứ
danh nào, nếu không “chọn” được người dịch khả dĩ thì đều có thể bị thất bại trong
một ngôn ngữ khác. Không ít trường hợp dịch giả Việt Nam
đã “hạ sát” các thi nhân vĩ đại trên thế giới bằng tiếng Việt! Ngay những người
có tên tuổi cũng làm “hàng” giả, đôi khi chỉ vì vô tình thôi, chỉ vì tài và tâm
chỉ đến được mức độ ấy mà thôi. Thực sự là chúng ta không có những người thẩm
định khách quan và sành điệu để đánh giá chuẩn xác về các tác phẩm văn học
dịch. Nguyên nhân chính của hiện tượng này có lẽ là do quyền lợi “bầy
đoàn”, cánh hẩu. Hoặc do sự hạn chế của chính những người cứ tưởng mình nắm
chân lý trong tay như viên sỏi vậy... Tình hình trên quả thực đã ảnh hưởng
không tốt đến văn học dịch, không nhiều người hiện nay dịch sách xuất phát từ
khát khao cống hiến, khát khao góp phần bồi bổ những tinh hoa của văn học thế
giới cho văn học quốc nội. Lớp trẻ hiện nay cũng có không ít tên tuổi nổi lên,
nhưng nhìn chung, cũng không tạo được thành đội ngũ. Nói một cách công bằng, có
những người trẻ dịch văn học chẳng thua gì các lớp cha chú, thậm chí còn hơn,
nhưng vẫn bị “xoa đầu”. Thành ra họ nhảy ra ngoài cuộc chơi mà tham dự chủ yếu
chỉ là những uy tín, lắm khi chỉ là “vang bóng một thời” mà thôi. Và vì thế,
chúng ta không có sự kế thừa...
2. Một thời khá dài, thơ Nga cổ điển và thơ
Nga Xôviết đã làm chủ “diễn đàn văn học dịch” ở ta. Đó cũng là điều hay, nhưng
có lẽ chúng ta sẽ chẳng bao giờ biết được thế là may hay rủi. Cần biết chấp
nhận thực tế như nó đã xảy ra. Một điều cần nói là, cho tới hôm nay vẫn chưa có
ai đánh giá được đúng và đủ về chất lượng các bản dịch thơ tiếng Nga ra tiếng
Việt như thế nào. Liệu chúng ta đã dựng được một nền thơ Nga đúng tầm với
họ bằng tiếng Việt hay chưa?
Tất nhiên, chẳng ai dại gì vạch áo cho người xem lưng, nên
mọi sự đánh giá đến nay chỉ là cảm tính mà thôi. Sự thật thì không ít những bản
dịch đã “ám sát” thi nhân nước ngoài bằng tiếng Việt. Tôi xin nhắc lại, hình
như việc dịch thơ ở Việt Nam
đều là tự phát. Trong một nền kinh tế manh mún và nhỏ lẻ, đó cũng là điều đáng
hoan nghênh vì chính nhờ lao động đầy ngẫu hứng và tình yêu cá nhân ấy mà chúng
ta đã tạo nên được những ấn tượng nhất định trong lòng công chúng về thi ca thế
giới. Nhưng chúng ta hầu như chưa làm được mấy việc để tạo dựng lại diện
mạo những nền thơ lớn trên thế giới bằng tiếng Việt. Ngoại lệ có lẽ chỉ là
thơ Đường! Thời gian qua, Nhà sách Đông Tây đã rất cố gắng để làm việc này,
nhưng theo tôi, lực bất tòng tâm, hiệu quả đạt được chưa như mong đợi.
Hiện nay một số người có xu hướng lăng xê một số tác giả
tiền phong của thơ Mỹ nói riêng và thơ phương Tây nói chung, coi như những ngọn
cờ cần noi theo. Tôi thấy mọi sự hơi buồn cười...
3. Rất khó dựng một nhà thơ nước ngoài bằng
tiếng Việt ở mức độ tương đương với họ. Mỗi dân tộc hãy tự “chăm lo” cho
mình. Thơ có tính khu biệt khủng khiếp. Thơ phụ thuộc một cách cốt tử vào ngôn
ngữ mà nó được viết ra. Mỗi đất nước, mỗi dân tộc đều có cách hình dung về thơ
khác nhau. Bản thân mỗi một nhà thơ cũng có cách nhìn nhận riêng của mình về tính
hiện đại trong thơ. Thơ không bao giờ là sự sáng tạo bầy đoàn. Tuyệt đối hóa
một xu thế thơ như thể đó là duy nhất đúng bao giờ cũng là việc có hại cho sáng
tác. Chúng ta không có nghĩa vụ coi bất cứ uy tín ngoại lai nào là chuẩn
mực. Mỗi dân tộc đều có bản sắc thơ riêng của mình... Mỗi nhà thơ cần có tiếng
nói, dù nhỏ nhẹ, nhưng là riêng của cá nhân mình...
Tôi nghĩ là không thể dịch thơ “một trùng một” về ngữ nghĩa
được. Có người đã từng khoe rằng họ dịch thơ nước ngoài sang tiếng Việt tới mức
giữ được cả nhịp điệu, số lượng từ trong câu... Thật hoang tưởng, làm gì có
chuyện ấy khi mỗi một ngôn ngữ có một kiểu hành văn khác nhau. Dịch thơ là phải
đồng điệu tâm hồn với tác giả. Mình phải “lên đồng” cùng với tác giả. Dịch thơ
không thể làm “cơ khí” được. Bởi thơ hay ở hồn vía. Nó hay ở cách tập hợp từ, liên
kết từ, ở ngữ nghĩa của từng từ một, ở khoảng giữa các từ ấy.
Những người “tung” như vậy không hiểu về đối tượng mình
viết. Ở Việt Nam
hiện nay đang có những nhà thơ với vốn ngoại ngữ tốt và từng có điều kiện tiếp
xúc sâu với một số nền thơ nước ngoài nên dễ bị mang tiếng là chịu ảnh hưởng
của những nền thơ đó. Tuy nhiên, sự thật cũng không hẳn như vậy, thậm chí là
không phải như vậy. Ai biết thế nào là chất thơ Mỹ La tinh hay chất thơ Nga?!
Cần phải thấy rằng, các nhà thơ ở Mỹ La tinh cũng như các nhà thơ Nga rất khác
nhau. Mỗi một nhà thơ lớn là một thế giới, làm gì có cái gọi là chất Mỹ La tinh
hay chất Nga chung chung ấy được? Hơn nữa, không một nhà thơ nào có thể quên
được văn hoá của tổ tiên đến mức chịu ảnh hưởng của thơ nước ngoài. Mỗi một nhà
thơ là một thế giới riêng thu nhỏ, nó khác nhau khủng khiếp...
4. Không có nền văn học hiện đại nào
mà chúng ta phải nhắm mắt đi theo cả. Bắt chước hay học đòi tân tiến là
rất gây phản cảm. Làm thế chỉ là tuân theo một sự nô lệ kiểu mới, rất có
hại cho đất nước. Đấy là chưa kể rằng, việc lăng xê một số tác giả thời
thượng nước ngoài hiện nay là hoàn toàn vì mục đích thương mại. Trong quá khứ,
chúng ta đã bị sai lầm khi thần tượng hoá một số người mà lẽ ra chỉ đáng để “tham
khảo” chứ không phải để sao chép.
Thơ khi đã được dịch sang tiếng Việt là để cho người Việt
đọc. Nếu như bảo đó là không phải Việt hoá thì rất buồn cười. Trong quá trình
dịch, dịch giả càng giỏi thì giữ được đặc tính và bản sắc của nguyên bản ở mức
độ cao nhưng thực ra, dịch sang tiếng Việt là đã Việt hoá rồi. Mỗi một từ của
nước ngoài là một điển tích trong ngôn ngữ ấy, đưa sang thứ tiếng khác là khác
đi vô số tình tiết rồi. Đặt vấn đề Việt hoá hay không là rất tầm phào.
5. Hội đồng văn học dịch ở tổ chức nghề
nghiệp của những người làm văn học chỉ có tác dụng nếu nó tạo nên được sự đánh
giá đúng về chất lượng các bản dịch và những người dịch, giúp đỡ những người
tâm huyết với công việc dịch văn học. Còn không, đó chỉ là nơi ngồi cho
những ai nghĩ rằng mình có quyền gì đó đối với các tác phẩm văn học dịch nhưng
thực ra lại chỉ là “hữu danh vô thực” mà thôi... Phần lớn người dịch hiện nay
đều làm theo sở thích của họ. Một số người dịch thơ thông qua đại sứ quán nhằm
mục đích truyền bá văn hoá. Những tập thơ này, thường không đạt hiệu quả. Dịch
thơ đôi khi còn nặng hơn làm thơ. Nó phải “diễn” tâm trạng người khác, vừa được
giữ chất của mình. Dường như viết nhân vật đã khó, đóng nhân vật càng khó hơn.
Hội đồng dịch cần phải đãi cát tìm vàng trong cái mênh mông hỗn mang hiện
nay.
6. Việc bản quyền làm nhiều người lo ngại.
Phần lớn nhà thơ nước ngoài khi hay tin thơ của mình được dịch sang tiếng Việt
sẽ không đòi tiền bản quyền. Vì bản quyền phải cân bằng với tỉ lệ thu nhập.
Trong tình hình hiện nay, khó ai có thể thu lãi nhờ việc bán thơ. Nếu như
để in sách thì phải liên hệ với tác giả, còn dịch cho “vui” thì thôi. Không ai
kết tội mình yêu thơ của mình. Tôi tin là họ sẽ hiểu và rất sung sướng khi
người dịch thơ của mình hay. Đừng sợ công ước Berne mà chỉ sợ không dịch được thôi!
Nếu có điều kiện (đặc biệt dùng để tham khảo) thì nên in
song ngữ là tốt nhất để người đọc biết được nguyên bản. Thực ra, dịch thơ
là những phút ngẫu hứng trên chủ đề của nguyên bản. Ngay như, bản dịch Đợi
anh về của nhà thơ Tố Hữu hay không phải là ông nhất nhất tuân thủ
nguyên bản tiếng Nga vì ông dịch từ bản tiếng Pháp.
Phùng Gia Lộc người nhỏ thó, ốm yếu, gầy gò; nước da xanh xám, thở lúc nào cũng nặng nhọc, khò khè suốt ngày vì bị hen suyễn nặng… Thế nhưng, bên trong con người có bề ngoài mảnh khảnh ốm o ấy lại luôn là một tấm lòng nồng hậu, một tinh thần sục sôi chống lại cái ác, không chịu được sự bất công, ngang ngược của bọn quan lại, cường hào mới… Giai đoạn quyết liệt nhất, sau khi đăng “Cái đêm hôm ấy đêm gì”, Phùng Gia Lộc phải trốn ra Hà Nội… Tôi vẫn nhớ như in cái cảnh về quê của Phùng Gia Lộc sau những ngày trốn tránh. Vợ anh chạy từ đâu về không biết, mặt mày hốt hoảng, tất tả, tiêu điều không khác gì chị Dậu trong Tắt đèn ngày trước. Mấy đứa con ngơ ngác, lạ lẫm trước đoàn khách xe pháo, hàng hóa lềnh kềnh đầy một khoảng sân đất trước nhà. Nhà anh xiêu vẹo hơn nhà chị Dậu…
Báo Dân Việt đưa tin: “Chiều 3.3, bà Nguyễn Phương Hằng, Phó Tổng giám đốc Công ty Du lịch Đại Nam , cho biết chính thức kiện ông Minh Diện vì cố tình xâm phạm đời sống riêng tư và bịa đặt nhằm làm nhục người khác. Ngoài ra, ông Minh Diện còn bị tố không có văn hóa và hủy hoại danh dự người khác không phải riêng với vợ chồng ông Huỳnh Uy Dũng - bà Nguyễn Phương Hằng ( ảnh bên ) mà kể cả một số cá nhân. Bà Nguyễn Phương Hằng cho biết: “Ông Minh Diện đã lôi kéo một số người nhằm phá hoại khu du lịch Đại Nam đang hoạt động. Tôi tin luật pháp nghiêm minh sẽ trừng trị thích đáng những kẻ chuyên đi phá hoại cuộc sống bình yên của người khác”. Được biết, ông Minh Diện đã có nhiều bài viết đăng trên blog B. liên quan đến một số cá nhân và gần đây ông Minh Diện có bài viết “Ân oán còn lâu”. Theo vợ ông Huỳnh Uy Dũng, bài viết toàn là những chuyện bịa đặt, hư cấu nhằm bôi nhọ, xúc phạm nhân phẩm và vu khống, phá hoại hạnh phúc gia đình vợ chồng ông đồng thời phá hoại hoạt động sản xuất kinh
Tôi rất ngạc nhiên khi tôi vừa đưa mấy bài viết lên trang, có kẻ đã nhắn vào điện thoại tôi: “Câm mồm đi thằng già!”. “Muốn ăn bánh ô tô không?”. Trên mạng xã hội, xuất hiện một số người xuyên tạc, thóa mạ, cho là tôi kích động chiến tranh rồi vu đòn chính trị. Kỳ lạ vậy …
Ngụy biện hay lỗi ngụy biện (fallacy) trong thảo luận và trình bày ý kiến là một vấn đề nghiêm trọng, xảy ra trên bình diện đại số đông người Việt, không chỉ ở cả dân thường mà kể cả các vị có bằng cấp, học thức, hot bloggers hay như từ cách lý luận báo chí trong nước vốn là một núi ngụy biện. Ngụy biện (fallacy) nguy hiểm hơn, còn khiến người nhiễm phải nó có một lối tư duy suy nghĩ và phân tích vấn đề sai lệch. Người càng ít tranh luận thì càng khó có khả năng phát hiện lỗi ngụy biện trong tư duy của mình để chỉnh sửa. Đó là lý do ta thấy nhiều người ít nói, nhưng một khi mở miệng thì sẽ đuối lý và kết quả là chỉ biết chửi thề, xúc phạm, tấn công cá nhân người khác mà thôi. Chúng ta thử xem xét vài ngụy biện của những người tham gia buổi “đấu tố” mang tên “Chia sẻ trên mạng xã hội để làm gì?” trong chương trình “60 phút mở” của VTV đang gây xôn xao dư luận.
Khi xe Vũ xuống dốc cầu qua địa phận xã Ngọc Châu thì phải dừng lại, vì chiếc xe tải phía trước thắng gấp để tránh hai phụ nữ đèo nhau bất chợt vượt qua mặt vào mép đường. Cũng vừa lúc đó phía sau xe Vũ có một chiếc xe tải lớn chở than của một công ty ở thị xã Hòn Gai (Quảng Ninh) do tài xế Nguyễn Công Thành lái, chạy với tốc độ lớn xuống dốc cầu, không kịp thắng đã lao đâm vào phía trái đuôi xe của Vũ. Bị tác động bởi một lực quá lớn, vợ chồng Doãn Châu ngồi sau lái xe ngã bổ vào thùng xe, còn vợ chồng Quỳnh - Vũ và con trai Quỳnh Thơ ngồi bên phải bị hất tung lên khỏi xe rơi xuống mặt đường.