Thơ Nguyễn Tùng Linh đã không
ngừng mở rộng biên độ cảm xúc, vượt qua những “phên giậu” chật hẹp để hòa vào
cõi nhân sinh rộng lớn. Vì nỗ lực theo hướng ấy nên thơ Nguyễn Tùng Linh thoát
khỏi một định nghĩa hạn hẹp theo đề tài “Thơ công nhân”, “Thơ lao động sản
xuất”. TrongBiển mùa đôngđộc
giả vui mừng thấy Nguyễn Tùng Linh đã từ sông tiến ra biển cả mênh mông, đã
từng đi trên con thuyền gỗ nay chễm chệ trên những con tàu sắt xông pha trên
sóng nước đại dương bao la. Đó là một sự cởi mở của đời sống và thi ca của một
nhân cách trưởng thành. Đó là sự mở rộng không gian nghệ thuật thơ và mở rộng
tâm hồn nhà thơ. Đó là một nguồn cảm xúc lớn rất cần cho thi ca muôn thuở. Vì
thế mà độc giả không nhận ra, không nhìn thấy sự “chưa đau đã kêu”, “chưa buồn
đã than thở” trong thơ Nguyễn Tùng Linh. Ưu điểm này tạo cho giọng thơ Nguyễn
Tùng Linh trẻ, khỏe, hào phóng và trung thực
Tự bạchlà bài thơ được đánh số 66 thuộc phần II (Biến Điệu)
trong tổng số 128 bài thơ của tập thơ mới nhấtBiển mùa đông(2012) của Nguyễn Tùng Linh. Với riêng
tôi,Biển mùa đôngnhư
là một tuyển tập thơ đầy đặn của một đời thơ, nghiệp thơ Nguyễn Tùng Linh (là
vì dõi theo năm tháng sáng tác sẽ thấy có bài thơ nhưNhững bông hoa trên bờ biển cát- được viết năm 1970, lúc hai mươi tư
tuổi và bài thơ “mới toanh”Tự bạchđược viết năm 2012, khi nhà thơ miền Hoa
Phượng Đỏ đã ngoại lục tuần). Có thể nói 128 bài thơ trongBiển mùa đônglà những gì nhà thơ chắt chiu được của
hơn ba mươi năm cầm bút, mỗi bài thơ là một cột mốc đời người và nghiệp thơ
Nguyễn Tùng Linh. Khi đã ở tuổi ngoại lục tuần nhà thơ mới khiêm nhường đưa ra
một tuyên ngôn thơ: “Nếu tôi có một mảnh vườn nho
nhỏ/ Tôi sẽ trồng cây và không làm thơ/ Tôi chỉ viết trong lúc mình chờ đợi/
Gom nhặt đủ tiền để mua mảnh vườn kia”. Tôi gọi đó là “tuyên ngôn
thơ” Nguyễn Tùng Linh, tại sao không, khi một cá nhân nhà thơ chứ không phải
một văn phái có thẩm quyền ra tuyên ngôn nghệ thuật của riêng
mình?!
2.
Thơ Nguyễn Tùng Linh, theo tôi,
cất cánh từ trong cuộc đời lao động ở một vùng đất giàu truyền thống nghệ thuật
- Hải Phòng. Anh có thơ đăng báo từ những ngày còn là công nhân (sau đó là cán
bộ kĩ thuật) ở các công trường, xí nghiệp ngành xây dựng Hải Phòng. Và Hải
Phòng lại là thành phố cửa biển, nên rất tự nhiên trong thơ Nguyễn Tùng Linh
không chỉ có ánh lửa hàn, tiếng búa, tiếng dồn toa của những đoàn tàu chở đầy
hàng mà còn rất nhiều sông nước, biển cả. Hình như biển là một ám ảnh và là một
không gian gợi thi hứng, gợi thi tứ cho Nguyễn Tùng Linh. Độc giả hãy theo dõi
sự xuất hiện của một loạt bài trong tập thơBiển mùa đônggắn
với sông nước, biển cả:Tình yêu Nha Trang(1985),Những bông hoa trên bờ biển cát(1970),Những ngọn đèn cửa sông(1985),Biển(1980),Nha Trang mùa thu(1986),Kéo lưới đêm cùng những người
đánh cá(1985),Thị xã của những người đánh cá(1981),Biển mùa đông I(2004),Bất chợt Tuy Hòa(2007),Biển mùa đông II(2004),Trăng sông Cấm(1991),Mùa bão, anh đi về phía biển(1988)… Phải chăng Nguyễn Tùng Linh là
“tình nhân” của sông nước, biển cả?! Rất có thể như thế vì thơ viết về sông
nước, biển cả của anh phóng khoáng và hào hiệp “Chiều nay Tôi và Biển/ Với Em phút giao mùa”(Nha Trang mùa thu).
Rất có thể như thế vì “mối tình si” của Nguyễn Tùng Linh với sông nước, biển cả
mà ngôn từ thơ anh rộng rãi, mở lòng, sẵn sàng sẻ chia tâm sự “Không phải mùa hè nồng nã/ Căng đầy như ngực gái mười lăm/ Biển
mùa đông như mắt người đàn bà góa/ Có nỗi khát khao bỏ quên” (Biển mùa đông I).
3.
Những bài ca lao động như là một
phần thơ máu thịt của Nguyễn Tùng Linh trongBiển mùa đông. Bài thơGiữa tháng Năm nghe tin gió mùa
Đông Bắc(1982) được viết bằng một cảm xúc
thẳng băng và thành thật “Giữa tháng Năm nghe tin gió mùa
Đông Bắc/ Và thế là suốt đêm không ngủ được/ Tôi trở dậy thắp một ngọn đèn dầu/
Trang giấy trắng như cùng tôi thức”. Nhà thơ trước trang giấy trắng
khác nào trước “pháp trường trắng” bỗng cảm thấy day dứt “Trang giấy trắng bời bời bao tâm sự/ Chữ ngổn ngang như đồng đất
mới cày/ Thơ đã gieo, hẹn đến mùa gặt hái/ Khi trong lòng gió lạnh đã xa xôi”.
Đi lên từ một người thợ, đi lên từ lao động nên trong thơ Nguyễn Tùng Linh chứa
chất nhiều suy tư, tâm tưởng về tình người trong lao động để tồn tại và đồng
thời lao động để sáng tạo. Niềm vui sống và niềm vui lao động chan chứa trong
thơ Nguyễn Tùng Linh. Một loạt bài thơ viết về con người lao động chân phương
và vẻ đẹp giản dị của lao động cả trong hai ý nghĩa của nó:Gửi em và thị xã than(1975 - 1982),Những em bé ở mỏ Cao Sơn(1986),Những ngọn đèn cửa sông(1985),Thơ viết trên cánh đồng ngập
nước(1980),Những câu thơ trần mình trong
bụi(1982),Cô gái Ê - Đê đi làm thủy lợi(1985),Mùa trảy lê(1976),Kéo lưới đêm cùng những người
đánh cá(1985),Viết tặng những người tuần đường(1986),Thị xã của những người đánh cá(1981),Thung lũng và những quầng bụi
đỏ(1978)… Là người
sống giữa đời thường, biết lắng nghe mọi cung bậc âm thanh của đời sống nên thơ
Nguyễn Tùng Linh có cái ưu thế của chất sống dồi dào, nếu có thể nói là “ròng
ròng sự sống”, tránh được lối véo von, màu mè của những người viết được một số bài
thơ sau một chuyến đi thực tế dài, ngắn về một một vùng miền nào đó của đất
nước. Nếu trong ngành giáo dục có những “giáo viên cắm bản”, âm thầm hi sinh để
gieo con chữ trên vùng cao thì Nguyễn Tùng Linh, theo tôi, là “nhà thơ cắm
chốt” vào đời sống lao động của nhân quần ở một vùng đất rất đặc trưng - Hải
Phòng - một thành phố đã đi vào thi ca như một giai thoại “Cái thành phố ăn nằm với biển/ Đẻ ra rất nhiều người cần lao”!?
Trong số những bài thơ mà Nguyễn Tùng Linh từng tự nhận là mình đã “nằm lòng” nơi
gợi thi hứng, thi tứ thìNhững bông hoa trên bờ biển cátđược viết ra trong sự run bật cảm xúc,
một cảm xúc ở độ chín cao và tạo liên tưởng sâu xa “Những cô gái từ đâu trở về/ Nở trên cát những nụ cười rất trẻ/ Nụ
cười đánh thức ngàn năm cát ngủ/ Bàn tay tung tóe mặt trời buổi trưa”.
Ai đã một lần đến với những diêm dân lầm than để thấy hết bao gian nan vất vả
của họ làm nên hạt muối mặn mòi vị đời, ai đã một lần đứng giữa cánh đồng muối
một buổi trưa chói chang nắng thì mới cảm nhận hết cái hình ảnh vừa thực vừa ảo
“bàn tay tung tóe mặt trời buổi trưa”. Nếu nói không quá thì Nguyễn Tùng Linh
là người đầu tiên, lần đầu tiên trong thơ tạo nên một loài hoa mới - hoa muối: “Một sớm mai mặt trời đến - sững sờ/ Gặp những bông hoa trắng ngời
trên cát/ Những cánh muối xòe ra từ lòng biển”
4.
Thơ Nguyễn Tùng Linh đã không
ngừng mở rộng biên độ cảm xúc, vượt qua những “phên giậu” chật hẹp để hòa vào
cõi nhân sinh rộng lớn. Vì nỗ lực theo hướng ấy nên thơ Nguyễn Tùng Linh thoát
khỏi một định nghĩa hạn hẹp theo đề tài “Thơ công nhân”, “Thơ lao động sản
xuất”. TrongBiển mùa đôngđộc
giả vui mừng thấy Nguyễn Tùng Linh đã từ sông tiến ra biển cả mênh mông, đã
từng đi trên con thuyền gỗ nay chễm chệ trên những con tàu sắt xông pha trên
sóng nước đại dương bao la. Đó là một sự cởi mở của đời sống và thi ca của một
nhân cách trưởng thành. Đó là sự mở rộng không gian nghệ thuật thơ và mở rộng
tâm hồn nhà thơ. Đó là một nguồn cảm xúc lớn rất cần cho thi ca muôn thuở. Vì
thế mà độc giả không nhận ra, không nhìn thấy sự “chưa đau đã kêu”, “chưa buồn
đã than thở” trong thơ Nguyễn Tùng Linh. Ưu điểm này tạo cho giọng thơ Nguyễn
Tùng Linh trẻ, khỏe, hào phóng và trung thực. Một loạt bài thơ gây ấn tượng về
sự trưởng thành đáng mừng này:Trở lại mùa hè(1986),Không đề I(2004),Nhớ và quên(2012),Vạn lý Trường Thành(2005),Viếng đền thờ Lý Ban(2005),Cố cung(2005),Viết ở đền thờ các nhân vật Tam
Quốc(2005),Một trái tim cao cả(1985-2005),Ngày cuối(1980),Thăm chùa(1992),Khúc mùa thu(2005),Truyền thuyết về bông hoa bất tử(1979),Với nhà văn Nguyên Hồng(1982 - 1987),Mẹ và ngôi mộ gió(2011),Cây bàng bên cửa sổ(1983),Nhà thơ và bạo chúa(2000),Luật yêu(1980),Biển mùa đông I(2004),Biển mùa đông II(2004),Đêm Ai Cập(2004),Đêm Tố Như(1988),Tự bạch(2012)… Trong thơ Nguyễn Tùng Linh có
triết lí nhưng rất may mắn cho độc giả yêu thơ anh là tác giả không rơi vào suy
lí và tư biện như thường thấy ở một số cây bút muốn tạo dáng trong văn chương
hiện nay.
5.
Xét riêng về câu chữ, thơ Nguyễn
Tùng Linh không phải là một hiện tượng bùng nổ ngôn từ, và tác giả không phải
là người tạo nên những “lớp sóng ngôn từ” kiểu như một vài nhà thơ thế hệ 8X.
Thơ anh nếu neo lại được trong ký ức độc giả thường là nhờ vào hai yếu tố cơ
bản: tình cảm chân thành, mãnh liệt của chủ thể sáng tạo và ý thức tìm tòi “tứ”
cho thơ ca. Người ta nói nhiều về các chiêu thức và kĩ thuật sáng tác văn
chương, đặc biệt là thơ ca, nhưng không ai có thể phủ nhận “quy luật của nghệ
thuật là quy luật của tình cảm”. Thế hệ như Nguyễn Tùng Linh dù viết thể loại
nào cũng đều giống nhau ở chỗ không bao giờ coi văn chương là một “trò chơi vô
tăm tích” (thực ra đấy là một thứ “triết lí vặt” theo cách diễn của nhà văn
Hoàng Ngọc Hiến mà một lần tôi đã đọc được ở đâu đó). Tôi nhận thấy Nguyễn Tùng
Linh viết thơ có tình. Trong bàiĐêm ngủ Giã(1986), nhà thơ đã bộc bạch cảm xúc nhiệt
thành của mình trước sự sống không bao giờ chán nản của những con người lao
động ở một xóm chài bé nhỏ ở miền Trung. Bài thơ kết thúc bằng những câu thơ ấm
áp tình người trong lao động và từ đó nẩy bật lên cái tứ thơ: “Bầy trẻ chạy ùa ra - những gót chân của bình minh/ Tôi tất tả cùng
dân làng ra bến/ Ghé vai khênh những lồ cá nặng/ Giã một đêm. Tôi nhớ suốt đờimình”. Nếu chú ý
quan sát thì độc giả sẽ nhận ra một kiểu ngôn ngữ thơ rất gần với đời sống khi
nhà thơ chỉ ngủ lại một đêm ở một làng vạn chài mà thấm thía, thấu hiểu đến
tường tận cả những cái “lồ” trĩu nặng cá tươi (Từ điển tiếng Việt, Trung tâm Từ điển - Ngôn
ngữ, Hà Nội, 1992, giải thích: “Lồ: Đồ đựng đan bằng mây, tre, giống cái bồ,
cái sọt, nhưng thưa mắt). Trong cảnh tưng bừng đánh bắt được những mẻ cá lớn
của ngư dân làng Giã, nhà thơ bỗng cảm thấy mình cũng là một trong cộng đồng
lao động vất vả mà vinh quang, nên cùng hiệp sức “Ghé vai khênh những lồ cá
nặng”. Một đêm bằng cả một đời để nhận chân sự thật, nhận chân cái đẹp của con
người lao động. Đọc thơ Nguyễn Tùng Linh, tự nhiên trong tôi dấy lên niềm vui
sống, niềm vui khi nhận ra sự gặp gỡ giữa thơ ca và đời sống của nhân dân lao
động, một nhân dân bao đời nay “Gươm một tay, cày một tay/ Đời nhân dân muôn
nỗi đắng cay” (S. Pêtôfi). Trong bài thơGửi em và thị xã than(1975 - 1982) có những câu thơ giản dị
như lời ăn tiếng nói hàng ngày của con người “Và Hòn Than - nỗi ràng rịt chúng
mình cùng thị xã/ Nỗi ràng rịt thị xã với trăm nơi” (Từ điển tiếng Việt, 1992, giải thích: “Ràng rịt: Buộc
nhiều vòng chằng chéo”). Độc giả có thể tìm thấy nhiều từ ngữ được nhà thơ sử
dụng một cách đắc địa như chúng tôi vừa dẫn giải và phân tích ở
trên.
Tuy nhiên như một
lẽ thường tình, đôi khi Nguyễn Tùng Linh cũng bộc lộ cái “gót chân Asin” của
mình trong thơ. Đó là khi anh không tiết chế được cảm xúc trào dâng thành ra
“lộng ngữ” (chơi chữ) kiểu như “Xin thêm một lần nhớ những điều
muốn quên/ Để được mãi quên đi những điều mình vừa nhớ”(Nhớ và quên, 2012).
Một đôi chỗ “tính chất khẩu hiệu” đã làm giảm cái mà chúng ta vẫn gọi là “mỹ
cảm” trong thơ, kiểu như “Sự thật đắng cay. Sự thật chẳng
ngọt ngào/ Và vì thế từng nhiều phen sấp mặt/ Sự thật đi qua những khúc quanh,
vượt bao ghềnh thác/ Có nhiều khi chìm hút đáy sâu/ Đấy là lúc bạo lực nhân
danh cái thiện để thực thi cái ác/ Bạo lực khoác áo thánh thần để tính chuyện
nhớp nhơ”(Với Paxtecnăc, 1987). Tôi cứ nghĩ một cách giản dị,
nếu trong tay chúng ta có một thúng gạo ngon, nhưng đừng vội nghĩ là nó không
hề có sạn. Nhặt ra vài ba “hạt sạn” trong thơ Nguyễn Tùng Linh, như tôi vừa
làm, ai dám nói là muốn “hạ bệ” thơ anh?! Trái lại để thấy “nhân bất thập
toàn”, và đặc biệt với nghệ thuật thơ ca, là một thử thách khó khăn nhất
đối với nhà thơ khi nắm trong tay thứ vũ khí lợi hại nhất - ngôn từ - trong
giao hòa, giao cảm giữa người với người.
Nguyễn Tùng Linh
cũng viết văn xuôi (anh sở hữu một tập truyện ngắnCon trai người thắp đèn cửa
sông, 1985), nhưng công bằng mà nói không nhiều tiếng vang trên văn
đàn đương đại Việt Nam.
Nhưng có hề chi như lời dạy của cổ nhân “Nhất nghệ tinh nhất thân vinh”. Tôi
nghĩ, Nguyễn Tùng Linh cứ sáng tác thơ, cứ đắm đuối với thơ, cứ như một “tình
nhân” của Nàng Thơ, ắt sẽ còn nhận được nhiều đền đáp xứng đáng hơn, sự đền đáp
trước tiên ở số đông độc giả yêu thơ anh.
Phùng Gia Lộc người nhỏ thó, ốm yếu, gầy gò; nước da xanh xám, thở lúc nào cũng nặng nhọc, khò khè suốt ngày vì bị hen suyễn nặng… Thế nhưng, bên trong con người có bề ngoài mảnh khảnh ốm o ấy lại luôn là một tấm lòng nồng hậu, một tinh thần sục sôi chống lại cái ác, không chịu được sự bất công, ngang ngược của bọn quan lại, cường hào mới… Giai đoạn quyết liệt nhất, sau khi đăng “Cái đêm hôm ấy đêm gì”, Phùng Gia Lộc phải trốn ra Hà Nội… Tôi vẫn nhớ như in cái cảnh về quê của Phùng Gia Lộc sau những ngày trốn tránh. Vợ anh chạy từ đâu về không biết, mặt mày hốt hoảng, tất tả, tiêu điều không khác gì chị Dậu trong Tắt đèn ngày trước. Mấy đứa con ngơ ngác, lạ lẫm trước đoàn khách xe pháo, hàng hóa lềnh kềnh đầy một khoảng sân đất trước nhà. Nhà anh xiêu vẹo hơn nhà chị Dậu…
Khi xe Vũ xuống dốc cầu qua địa phận xã Ngọc Châu thì phải dừng lại, vì chiếc xe tải phía trước thắng gấp để tránh hai phụ nữ đèo nhau bất chợt vượt qua mặt vào mép đường. Cũng vừa lúc đó phía sau xe Vũ có một chiếc xe tải lớn chở than của một công ty ở thị xã Hòn Gai (Quảng Ninh) do tài xế Nguyễn Công Thành lái, chạy với tốc độ lớn xuống dốc cầu, không kịp thắng đã lao đâm vào phía trái đuôi xe của Vũ. Bị tác động bởi một lực quá lớn, vợ chồng Doãn Châu ngồi sau lái xe ngã bổ vào thùng xe, còn vợ chồng Quỳnh - Vũ và con trai Quỳnh Thơ ngồi bên phải bị hất tung lên khỏi xe rơi xuống mặt đường.
Tôi rất ngạc nhiên khi tôi vừa đưa mấy bài viết lên trang, có kẻ đã nhắn vào điện thoại tôi: “Câm mồm đi thằng già!”. “Muốn ăn bánh ô tô không?”. Trên mạng xã hội, xuất hiện một số người xuyên tạc, thóa mạ, cho là tôi kích động chiến tranh rồi vu đòn chính trị. Kỳ lạ vậy …
Báo Dân Việt đưa tin: “Chiều 3.3, bà Nguyễn Phương Hằng, Phó Tổng giám đốc Công ty Du lịch Đại Nam , cho biết chính thức kiện ông Minh Diện vì cố tình xâm phạm đời sống riêng tư và bịa đặt nhằm làm nhục người khác. Ngoài ra, ông Minh Diện còn bị tố không có văn hóa và hủy hoại danh dự người khác không phải riêng với vợ chồng ông Huỳnh Uy Dũng - bà Nguyễn Phương Hằng ( ảnh bên ) mà kể cả một số cá nhân. Bà Nguyễn Phương Hằng cho biết: “Ông Minh Diện đã lôi kéo một số người nhằm phá hoại khu du lịch Đại Nam đang hoạt động. Tôi tin luật pháp nghiêm minh sẽ trừng trị thích đáng những kẻ chuyên đi phá hoại cuộc sống bình yên của người khác”. Được biết, ông Minh Diện đã có nhiều bài viết đăng trên blog B. liên quan đến một số cá nhân và gần đây ông Minh Diện có bài viết “Ân oán còn lâu”. Theo vợ ông Huỳnh Uy Dũng, bài viết toàn là những chuyện bịa đặt, hư cấu nhằm bôi nhọ, xúc phạm nhân phẩm và vu khống, phá hoại hạnh phúc gia đình vợ chồng ông đồng thời phá hoại hoạt động sản xuất kinh...
Ngụy biện hay lỗi ngụy biện (fallacy) trong thảo luận và trình bày ý kiến là một vấn đề nghiêm trọng, xảy ra trên bình diện đại số đông người Việt, không chỉ ở cả dân thường mà kể cả các vị có bằng cấp, học thức, hot bloggers hay như từ cách lý luận báo chí trong nước vốn là một núi ngụy biện. Ngụy biện (fallacy) nguy hiểm hơn, còn khiến người nhiễm phải nó có một lối tư duy suy nghĩ và phân tích vấn đề sai lệch. Người càng ít tranh luận thì càng khó có khả năng phát hiện lỗi ngụy biện trong tư duy của mình để chỉnh sửa. Đó là lý do ta thấy nhiều người ít nói, nhưng một khi mở miệng thì sẽ đuối lý và kết quả là chỉ biết chửi thề, xúc phạm, tấn công cá nhân người khác mà thôi. Chúng ta thử xem xét vài ngụy biện của những người tham gia buổi “đấu tố” mang tên “Chia sẻ trên mạng xã hội để làm gì?” trong chương trình “60 phút mở” của VTV đang gây xôn xao dư luận.