Lời nhắc không chỉ dành cho giới văn chương: Bớt tham sẽ tốt lên thôi
Trong cuộc trò chuyện với nhà thơ Hồng Thanh Quang vào năm
2003, nhà văn Nguyễn Khải tiết lộ: “Ngày xưa nhà văn đâu có chuyện đi thực tế.
Họ sống lang bạt kỳ hồ. Bạn bè nuôi, có khi bồ bịch nuôi, kiểu như ông Nguyễn
Bính ấy, cô đầu cô đít nuôi cả. Người ta tự lực chứ người ta đâu có đi chơi,
người ta đến đâu thích viết thì anh viết thế thôi. Hoặc ông Nam Cao, mỗi ông
làm một nghề và lấy cái nghề đó mà viết. Cái vui buồn nhân thế của mọi người là
từ bản thân họ. Cái đó tự nhiên nó vào văn của người ta nó thật. Của mình là
cái thế giới viên chức Nhà nước, thì tự nhiên mình viết trong thế giới đảm bảo
được nhiều về cuộc sống. Thì cái đó chính là cái hạn chế, tước đoạt đi nhiều
cảm xúc chân thật. Có nhiều điều, nhiều cái mình không cảm thấy, nhìn thấy.
Nhưng được cái anh ngồi viết nhiều năm về chủ nghĩa anh hùng, viết về cái to
lớn thì được chứ đời thường ít ai viết lắm”.
Nhà
văn Nguyễn Khải: Bớt tham thì sẽ tốt lên thôi
HỒNG THANH QUANG
Sau tháng 4/1975, bố tôi trở về Hà Nội từ Trường Sơn. Và
Tổng cục Hậu cần Quân đội Nhân dân Việt Nam đã cấp cho bố tôi một căn hộ
hai ba chục mét vuông gì đó ở khu tập thể K95 trên bãi Phúc Xá, sát cạnh sông
Hồng (nơi đây năm nào cũng phải chạy lụt). Tôi hồi đó mới học lớp 6 lớp 7, đọc
khá nhiều sách của Nguyễn Khải nhưng chưa một lần được nhìn thấy ông bằng xương
bằng thịt.
Hồi nhỏ, tôi luôn nghĩ về các
nhà văn, nhà thơ như nghĩ về những người thuộc hành tinh khác và dứt khoát
không chịu công nhận là họ cũng giống như những người thường. Tôi còn nhớ, khi
tôi học lớp 9, được thầy Phước cho vào danh sách những học sinh giỏi văn của
Trường Việt - Đức trên phố Lý Thường Kiệt, Hà Nội và cho dự một buổi ngồi nghe
nhà thơ Xuân Diệu nói chuyện về thơ. Nói thực, tôi đã thất vọng cực độ khi được
nhìn thấy nhà thơ Xuân Diệu, mắt nhắm nghiền nói về thơ, bởi lẽ khi đó, tôi
không thể hình dung được “hoàng tử thơ tình” lại là một người đàn ông hơi béo
bệu, bụng phệ như thế. Sau này, ở tuổi 20, tôi đã rất tâm đắc với câu thơ của
thi sĩ Xôviết Evgueni Evtushenko: “Đừng tin những người làm thơ béo, thi sĩ
không thể nào bụng phệ”… Giờ, ở tuổi 50, tôi rất muốn tin rằng, thi sĩ đôi khi
vẫn có thể bụng phệ (!)...
Trở lại câu chuyện với nhà văn Nguyễn Khải, sống ở K95, tôi
biết là nhà văn ở cạnh dãy nhà tôi nhưng chưa được một lần tận mục sở thị. Cho
tới một lần, đi học về giữa trưa, trên đoạn dốc lên bờ đê, tôi thấy một người
đàn ông đứng tuổi, dắt xe đạp, đi cùng một người phụ nữ cao tuổi hơn, có dáng
chị em và có vẻ như mới ở miền Nam ra (hồi ấy phong cách ứng xử giữa hai miền
có những nét khác nhau không khó phân biệt). Khi thấy xe cộ đi loạn xạ quá,
người đàn ông mới rất gượng nhẹ dồn người phụ nữ vào một bên như để che chở.
Không hiểu vì sao mà một cậu bé mới 14-15 tuổi đầu là tôi lại nghĩ ngay, có lẽ
đây là nhà văn Nguyễn Khải (trước đó, tôi đã được đọc một số tác phẩm của ông
viết về những người họ hàng di cư vào Sài Gòn sau năm 1954)… Cứ nghĩ thế thôi
chứ cũng không biểu lộ gì.
Lớn lên ở khu K95, tôi được
gặp con gái nhà văn Nguyễn Khải, học cùng với cô em gái út của tôi, sinh năm
1970. Bọn trẻ con thân nhau nhưng hay cãi nhau. Tuy vậy, trong bất cứ tình
huống nào, tôi vẫn rất có cảm tình với bạn của em gái tôi, đơn giản vì đó là
con gái của một nhà văn mà tôi kính trọng từ khi 7-8 tuổi đọcXung độthayMùa lạc… Sau
này, ở tuổi dậy thì, tôi đã mê đắm nữ diễn viên Tuệ Minh khi chị đóng vai
Phương trong vở kịch Cách mạng của Nguyễn Khải. Tôi rất thích cách Nguyễn Khải
viết về Sài Gòn một thuở qua những tác phẩm nhưGặp gỡ cuối năm…
Kính trọng nhà văn Nguyễn
Khải, nhưng tôi cũng không tìm kiếm cơ hội gặp ông ở Hà Nội vì tôi rất hoài
nghi nhận xét rằng “văn là người”. Mãi cho tới năm 2003, tôi mới có cơ hội cùng
một bạn đồng nghiệp tới trò chuyện với ông trong ngôi nhà mới xây của người con
trai ở trong thành phố Hồ Chí Minh. Lúc ấy ông đã ở độ tuổi 73 (ông sinh năm
1930). Không biết có duyên gì với nhau không nhưng ông đã dốc cho chúng tôi
nghe nhiều tâm sự mà tôi cho là rất gan ruột… Khi ấy, ông vừa thôi chân thành
viên của Hội đồng Văn xuôi Hội Nhà văn Việt Nam, một chức danh phải nói là vẫn
còn rất sang trọng ở thời đó… Và câu chuyện giữa chúng tôi với ông cũng mở ra
từ sự việc này.
@ Ông đã thôi là
thành viên của Hội đồng văn xuôi Hội Nhà văn Việt Nam. Có phải ông cảm thấy áy náy
rằng vì mình không có ảnh hưởng cần thiết đến những quyết định mà lẽ ra mình
phải có ảnh hưởng trên cương vị mình giữ nên mới thôi không?
Nhà văn Nguyễn Khải:Không, đừng nói thế, nói thế
người ta mắng cho. Tôi lớn tuổi rồi, 73 rồi, sức đọc của tôi cũng yếu đi, cái
nhận xét của mình mất cái bén nhạy nên mình xin thôi.
@ Tự ông cảm giác như
thế?
- Ừ, tự mình thôi. Mỗi một lần
vào xét chung khảo, người ta đưa cho mỗi một thành viên Hội đồng đọc khoảng từ
10 đến 12 cuốn, mà dày lắm. Thế thì nhiều lắm mình cũng chỉ đọc được 3- 4 cuốn
thôi, mà đọc lại không phải là với tư cách người giám định mà với tư cách người
thưởng thức. Cái anh già buồn cười thế này: gặp sách hay thì đọc, còn thấy chán
quá là bỏ luôn. Cái đó là không được phép vì anh là người giám định mà. Hay dở
anh đều phải đọc hết. Mình không làm được thế thì mình không nên nằm trong Hội
đồng. Bởi vì nếu mình ở trong Hội đồng, đôi khi anh em hỏi tại sao cuốn này
được, cuốn kia lại không được, thì mình không thể trả lời được là mình không
đọc hết. Thứ hai là, bây giờ tôi cũng lớn tuổi nên mình không giao tiếp được
nhiều với các cây bút trẻ là với lực lượng chủ lực hiện nay. Suốt ngày ngồi một
chỗ thế này mình gặp ai được? Đến họp mình cũng không đi. Thế nên tôi thấy, ở
lại như thế trong Hội đồng thành ra lại mang tiếng. Thôi thì mình xin rút ra để
cho Hội đồng bổ sung những vị khác trẻ hơn. Người ta có sức đọc, giao tiếp
nhiều, đi nhiều nên minh mẫn được, chính xác được. Chứ mình ngồi lù lù một chỗ
thì ai biết mình, mình biết ai.
@ Mới đây có một
phát minh khoa học nói rằng con người ta càng lớn tuổi, càng về chiều thì càng
trở nên tốt bụng và tử tế hơn là do có một cái chất hóa học gì đấy xuất hiện.
Thực ra, con người cần phải có tính tốt ngay từ trẻ thì khi về già, người ta
càng ngày càng biết mình hơn, giữ mình hơn. Chứ còn lúc trẻ tính không hay thì
lúc già có lẽ tính vẫn thế.
- Theo mình nghĩ nôm na thì
như thế này. Tuổi trẻ người ta có nhiều cái tham. Khi anh đã tham thì tính anh
ta xấu. Chứ về già làm sao mà tham, anh sắp chết làm sao mà tham được. Khi đã
bớt tham thì tốt lên thôi. Ai cũng thế, người trẻ nào mà lòng tham ít thì tự
nhiên anh hóa người tính tốt. Người già mà lòng tham vẫn còn nhiều thì vẫn còn
bị xấu nữa cơ, chứ không phải người già nào cũng tốt cả. Anh già mà anh còn
tham, ai mà nói xấu anh một cái là anh sửng cồ lên anh mắng lại. Ai mà anh cảm
thấy là tranh chức tước hay định giành của anh một cái gì là anh nổi cáu lên
thì anh đâu có tốt. Thế nên không phải là người già nào cũng tốt. Người già nói
chung là người biết điều do quá trình anh cũng lên bổng xuống trầm nhiều rồi,
lên voi xuống chó nhiều rồi, anh cũng có nhiều cái vất vả. Và tự nhiên anh cảm
thấy rằng anh biết thế nào là đủ. Đến cái tuổi đó anh biết thế nào là sống. Anh
muốn cũng không được. Đời anh bao nhiêu chục năm, anh muốn bao thứ mà đâu có
được. Thế nên bây giờ anh còn có vài năm cuối thì anh muốn cũng không được. Thế
còn có những anh già, về già mà anh còn muốn nhiều nữa thì hơn quái rồi. Anh mà
như thế thì không thể là người tử tế được, chứ đã tử tế thì phải ít tham đi.
Anh phải nghĩ tới việc khác, phải nghĩ tới thực tế.
@ Thông thường con
người ta, khi trẻ bắt đầu từ những cuộc xung đột giữa cá nhân với thực tại,
giữa ham muốn với năng lực của mình. Theo cảm nhận của ông, khi về già, những
cuộc xung đột ấy diễn ra thế nào trong từng con người?
- Tuổi trẻ nó có nhiều ham
muốn, mong muốn, nhiều cái tham lam. Cái đó không phải là xấu. Nếu người nào mà
cũng như tu sĩ cả thì xã hội này không phát triển được. Nó phải có ganh đua,
phải có ảo tưởng về mình thì mới làm được. Thí dụ anh đã làm thơ thì phải làm
thơ hay nhất, tất cả các thằng nhà thơ khác phải dìm nó xuống. Về già anh không
thể là nhà thơ bình thường được thì đấy là lúc về già, phải làm việc khác. Như
vậy, khi anh làm thơ mới tý tuổi đầu mà đã thấy mình không bằng ông này ông kia
thì anh còn làm thơ làm quái gì! Thế cho nên tuổi trẻ phải có ảo tưởng, đôi khi
có cái ảo tưởng, đôi khi phi thực tế, nhưng chính những cái đó mới giúp cho
người ta làm được những việc vượt khỏi tầm tay của người ta. Chính những cái đó
mới tạo được nhiều cái sáng tạo.
@ Khi
ông mới viết văn, ông có ảo tưởng không?
- Cũng có, nhưng không lớn.
Chuyện là thế này, từ nhỏ tới giờ, lúc nào mình cũng vất vả. Mình đâu có được
như anh Đỗ Chu, anh Phạm Tiến Duật... Đỗ Chu viết khi 17 - 18 tuổi, còn học trung học, nhưng đã
được người ta để ý rồi. Thế còn mình viết vất vả lắm, tức là mình làm báo bắt
đầu từ năm 19 tuổi mà mãi tới 26 tuổi mới được người ta công nhận là viết được.
Cho nên nó có cả một thời gian không thuận buồm xuôi gió. Anh biết được cái tài
của anh tới mức độ nào. Cho nên anh không có cái gì vượt quá. Thế còn có những
anh y như thần đồng, như anh Phạm Tiến Duật hăm mấy tuổi mà thơ đã khắp nước
đọc rồi. Hoặc như Đỗ Chu hay có nhiều tay như
thế. Hoặc Vàng Anh (nhà văn Phan Thị Vàng Anh - HTQ) ấy, ngay từ tuổi trẻ cô ấy
có cái “duyên” dễ tạo cho người ta có một cái nhìn cảm thấy như mình có một cái
gì, cái hơn, cái đặc biệt mà ông trời ông ấy cho mình, có thể lấn lướt được
người khác. Thế còn sau đó nó không thành cái gì lại là chuyện khác. Thế thôi,
còn riêng tôi thì tôi cũng vất vả lắm. Vất vả là anh biết lần mò thế, nên những
cái đó nó không thể khiến cho mình phải có một cái gì nghĩ vượt quá tương lai.
@ Phải chăng ngay
từ khi mới bắt đầu văn nghiệp, ông đã là con người biết nhìn cuộc đời một cách
trầm tĩnh và ở mức độ nào đó, trung dung?
- Thì cũng là do bản thân anh
không được xuôi chèo mát mái lắm. Anh vừa vào viết lách đã về ngay tạp chí Văn
nghệ quân đội. Mà anh viết lại không bằng ai, phải mất ba bốn năm rồi mới thành
cái này cái khác. Thế chính những sự đó phải làm cho anh tự nghĩ rằng, anh đúng
là loại phải dùng lao động, phải dùng học tập, phải dùng nhiều cái, thì mới trụ
được, vì như người ta nói, trời cho anh ít lắm.
@ Có thể rất tự tin
mà thành công, nhưng cũng thể không tự tin lắm nhưng nếu bằng lao động, bằng tự
tu dưỡng vẫn có thể đạt được mục đích?
- Mình cũng có tự tin chứ,
cũng đắm đuối với nghề lắm chứ, có điều là anh không bốc phét, không nói khoác
lên nhiều thôi. Cũng là tự tin nhưng anh tin là anh có thể đi theo được nghề
này và cũng phải mạnh mẽ thì mới được là vì anh nếu mà viết không được thì bạn
bè anh họ buồn lắm. Nếu viết không được thì cái chuyện đó dễ làm cho người ta
chán nản lắm. Vì cái nghề này là cái nghề mà nếu anh nào vào cái nghề này ở mức
độ kém thì nó sẽ có nhiều chuyện làm buồn phiền lắm. Ba bốn người đứng lên mà
chỉ biết tên có một người. Ba người trừ mình ra là mình đã thấy chán rồi. Bởi
anh không phải là tay viên chức bình thường. Thế nên cái này có lúc anh phải
mặt dày, kệ người ta không biết, người ta coi thường chửi mắng, anh vẫn cứ phải
làm.
@ Thường người ta
lúc có tuổi hay nhìn lại con đường đã qua và đôi khi có một sự ân hận nào đó về
những việc mình làm chưa đúng với ai đó, có thể không phải do ác ý mà do nhận
thức khi đó của mình chưa đúng thôi. Nhưng một khi cuộc đời con người ta ai
cũng chỉ sống có độc một lần và nó đã trôi qua rồi, thì cái sự ân hận liệu có
ích gì chăng đối với những người mà mình đã từng làm việc không phải với họ?
- Theo mình, nói chung là
những số phận tuỳ thuộc vào từng tính cách. Nếu anh có sống lại trẻ thế thì anh
vẫn phải làm đúng thế chứ anh không thể rút kinh nghiệm. Khi rút kinh nghiệm là
nó phải qua những thất bại. Anh vẫn phải có những lời nói ngu ngơ ấy, có những
hành động dại dột ấy và có những mối quan hệ vớ vẩn ấy. Cái đó từ cái cách sống
của anh. Mà nếu anh có trẻ lại thì anh vẫn phải theo con đường đó thôi. Anh chả
có cách gì khôn hơn tuổi trẻ được. Thế nên cái điều đó tất nhiên có thật nhưng
anh không nên bận tâm quá. Thí dụ có thời kỳ anh rất tin vào một cái điều này
thì cái điều tin vào điều ấy anh cũng đừng nói là tin một cách bố láo. Anh suy
như thế tức là sẽ làm một số việc không thành. Đấy ví dụ như thế. Anh tin vào
như thế, đến lúc anh cảm thấy không phải khi niềm tin hoàn toàn mất đi. Anh lại
cảm thấy như hụt hẫng. Thế nhưng năm tháng đó không phải là mất đi đối với anh.
Thế con người ta cứ trèo lên trèo lên mãi, tức là nhận thức là một quá trình.
Cho nên cũng không nên có gì đáng phải ân hận quá nhiều. Ví dụ như tuổi trẻ
trong tình yêu, tình bạn, các mối quan hệ nó có nhiều cái rầy rà. Nhưng phải
như thế, anh không thể làm khác được. Một người trẻ khôn ngoan như ông cụ non
thì có chỗ lại khó chịu.
@ Tức là mình phải
có một cái nhìn biện chứng, mọi kinh nghiệm đều phải có giá của nó? Tất nhiên
không phải vì thế mà mình không ân hận, đúng không ạ?
- Thí dụ một người già nghĩ
lại như tuổi trẻ bây giờ thì tự nhiên lại có cái lố lăng. Nhưng trẻ mà khôn ngoan
thế thì không ai dám chơi. Khôn quá không được, khôn quá tuổi thì không được
đâu. Thế cho nên tuổi nào anh sống đúng cái tuổi ấy. Một người già cảm thấy ham
hố quá thì ai cũng cảm thấy buồn cười; hăng hái quá, ham hố quá cũng buồn cười.
Cái anh trẻ khôn ngoan quá cũng buồn cười. Cứ tuổi nào sống đúng tuổi ấy. Cũng
chẳng có gì phải đáng ân hận nhiều.
@ Đối với bản thân
ông cũng là như thế đúng không?
- Cũng thế thôi.
@ Ở một số người
lớn tuổi thường lại có hội chứng gọi là hội chứng sợ bị mang tiếng là không
giúp tuổi trẻ. Và vì điều đó xảy ra một số hành động gọi là dân tuý với cả
thanh niên. Và điều đó như là xui dại tuổi trẻ ấy. Ông nghĩ như thế nào về việc
này trong đời sống văn học Việt Nam
hiện nay? Theo ông thì có hay không chuyện đó, mà nếu có thì có như thế nào
theo cảm nhận của ông? Tức là cứ thấy người trẻ mới một tý không biết thế nào
là cứ khen vống lên, hay là tung ra những lời lẽ mù mịt tụng ca nào đấy.
- Có hiện tượng như thế. Nhưng
mà trong cái điều ấy nếu nói không đúng giá trị thì nó chẳng có giá trị gì cả.
Ví dụ như anh em tôi có một thời cứ nói cái lão Khải gặp ai cũng khen ầm lên.
Khen ầm là do ngày xưa mình cũng chẳng chèn ai. Nhưng có thể mình bằng tuổi họ
ngày xưa mình viết kém hơn, tự nhiên mình đọc, chẳng hạn như Phan Thị Vàng Anh hay
Nguyễn Huy Thiệp thì mình khen ầm lên. Nhưng bây giờ mình thấy khen thế là đúng
thật. Đó là vì khi mình bằng tuổi họ thì mình đâu có viết được như thế. Lúc đó
mình viết còn ngây ngô lắm, viết còn trần trụi lắm. Hay có thời kỳ cách đây dăm
bảy năm, tôi có đọc chung khảo một cuộc thi ở vùng đồng bằng sông Cửu Long họ
thi thố, có tay tên là Tường. Cậu ấy viết cái chuyện này ghê lắm về một cô vợ ở
nhà có một con rồi lại ngủ với một thằng lái máy kéo. Thế rồi chồng về nó biết,
nó quyết tâm bỏ. Mà rồi nó lại không bỏ, cuối cùng đã ra toà ly dị xong rồi
nhưng nó về nó thương thế nào lại thôi. Thì cái đoạn viết đó cực kỳ giỏi. Cậu
Tường ấy viết thoải mái mà nó viết chỉ mỗi cái là nhìn thấy vợ nó sau khi bị nó
hất hàm bảo đi đi. Và vợ nó đã đi bộ một đoạn rồi. Sau đó nó quay lại nhìn thấy
vợ nó, tự nhiên nó thấy có cái điều gì trong người, nó thương hại. Nó nghĩ rằng
phụ nữ có những lúc người ta có những cái không thể tự chủ, không thể kìm hãm
được, nhất là đàn ông lại đến trong đêm hôm như thế làm sao nó có thể tự chủ
được. Thế tự nhiên nó tha thứ... Phải nói cái đoạn đó cực hay. Thì đoạn viết tự
nhiên đó tôi khen. Hay thời kỳ Nguyễn Huy Thiệp viết về cảnh bố chồng với con
dâu mà thằng con bắt gặp, thì viết giỏi quá. Tôi quá phục. Mình đọc đoạn này
mình cũng thấy sợ. Hôm đó tôi mới kéo ông bạn đến, tôi nói: “Mày cứ đọc cái
đoạn này đi, tao đố mày viết được như thế đấy”. Thiệp nó viết thế quá tài rồi.
Đến truyệnMuối
của rừng, tôi bảo đọc cái này rất hay, truyện ngắn hơn nửa trang báoVăn Nghệ.Tức là anh vào trang bị đầy khí
thế con người: súng ống. Cuối cùng ra mất hết sức khoẻ, cởi trần trùng trục. Mà
nó viết thế quá giỏi rồi còn gì. Thế thì cái điều đó là khen thật, chứ đâu có
phải là khen giả. Ngày xưa chúng tôi đâu có biết viết buồn là thế nào. Khen cô
Vàng Anh biết thế nào là cái buồn. Mà cả chuyện của cô ấy, tôi biết chuyện đời
của cô ấy... Mà Vàng Anh buồn là phải, đàn ông không thích người yêu thông
minh. Bao giờ đàn ông cũng muốn đàn bà phải là hoàn toàn đàn bà. Đàn bà mà lại
vừa nghệ sĩ vừa triết học thì đàn ông nó bỏ thôi. Ai mà chả thế, đúng không nào?
@ Thế ngày xưa, thế
hệ như ông viết văn không có nỗi buồn trong ấy?
- Không, anh không được phép
viết như thế. Đất nước đang có chiến tranh. Hơn nữa, chủ nghĩa xã hội sao lại
buồn, phải vui chứ? Chính những như thế đã hạn chế tầm với lên, rộng ra của
mình. Nhưng mà trong cái bình thường thì anh cứ là tha hồ viết rồi. Viết về nỗi
buồn a? Ngày xưa những cái đó đâu có được viết. Viết không ai hoan nghênh.
@ Ông trưởng thành
từ ngôi nhà số 4 Lý Nam
Đế. Ông có ấn tượng như thế nào với bạn viết cùng thời?
- Nói cho cùng đối với tôi,
tạp chíVăn nghệ
quân độicó nhiều
ân huệ lắm. Nếu không có nó, có lẽ mình không trở thành nhà văn. Ngày xưa ở các
cơ quan Nhà nước, cơ quan nào cũng lắm sự rắc rối lắm. Riêng hồi đó ở bên Văn
nghệ Quân đội đối với tôi và những anh em khác cứ về đấy là viết được thôi. Vì
ở đó cư xử với nhau đặc biệt lắm, có tính chất bạn bè anh em. Ví dụ như có
những thủ trưởng phụ trách như ông Vũ Cao, ông Thanh Tịnh... thì nó gần như là
hội nghề nghiệp rồi. Chẳng hạn có thời gian tôi sống với ông Vũ Cao rất lâu,
ngay trong bình thường là quan hệ anh em rồi. Ông ấy là đàn anh mình trong nền
văn chương rồi, đi trước mình rồi. Cho nên lời bảo ban của ông ấy không có gì
mà mình không nghe cả. Hay ông Thanh Tịnh cũng thế. Các ông ấy khen mình cảm
thấy vui, chê cảm thấy buồn thật chứ không phải do áp lực gì trong quân đội hay
do chỉ huy với thằng lính, không phải thế. Thứ hai là trong mối quan hệ với
nhau cũng tử tế, rất tử tế. Anh em nói đùa với nhau này nọ rằng tử tế hơn nhiều
cơ quan ngoài. Và đặc biệt họ không tranh giành, ghen tị hay đố kị với ai cả.
Văn nghệ quân đội nó như thế.
@ Mới rồi tôi có
xem ở trên VTV3 có làm một phim về ông. Trong đó ông có trả lời, tôi ở một thế
hệ nhà văn trải qua chiến tranh thì lương Nhà nước cấp, con cái thì vào trong
các trường của Nhà nước, tất cả mọi thứ đều được Nhà nước chu cấp hết cho nên
cái hiện thực của chúng tôi cũng cần những hiện thực do những cán bộ, một nhà văn
cán bộ ngồi ở trong phòng làm chưa thấu đáo hết được nhân tình. Thực sự ông
nghĩ như thế chứ?
- Có cái người ta gọi là
thương vay khóc mướn ấy mà. Bây giờ anh đi xuống nông thôn người ta đói, chứ
anh đâu có đói. Thực ra là từ khi bắt đầu dưới chế độ mới, tình hình mới mình
mới có. Ngày xưa nhà văn đâu có chuyện đi thực tế. Họ sống lang bạt kỳ hồ. Bạn
bè nuôi, có khi bồ bịch nuôi, kiểu như ông Nguyễn Bính ấy, cô đầu cô đít nuôi
cả. Người ta tự lực chứ người ta đâu có đi chơi, người ta đến đâu thích viết thì
anh viết thế thôi. Hoặc ông Nam Cao, mỗi ông làm một nghề và lấy cái nghề đó mà
viết. Cái vui buồn nhân thế của mọi người là từ bản thân họ. Cái đó tự nhiên nó
vào văn của người ta nó thật. Của mình là cái thế giới viên chức Nhà nước, thì
tự nhiên mình viết trong thế giới đảm bảo được nhiều về cuộc sống. Thì cái đó
chính là cái hạn chế, tước đoạt đi nhiều cảm xúc chân thật. Có nhiều điều,
nhiều cái mình không cảm thấy, nhìn thấy. Nhưng được cái anh ngồi viết nhiều
năm về chủ nghĩa anh hùng, viết về cái to lớn thì được chứ đời thường ít ai
viết lắm.
@ Tức là anh viết
những tráng ca thì thành công, còn viết về những nỗi đau đời thường thì không
được.
- Tức là nếu viết về nông
thôn, thì chỉ viết về các cuộc đấu tranh giữa hai con đường vào hợp tác hay
không vào hợp tác, đề tài của anh bị thu hẹp lại. Nỗi đau của người dân thực sự
chưa được chạm đến, chưa thực sự cảm động. Tất nhiên có chạm tới lòng yêu nước,
chạm tới cái này cái khác. Nhưng ngay trong cái lòng yêu nước thì anh có chạm
nhưng cũng chưa tới hết. Anh nói cũng chưa được. Ngay cả cái chuyện đưa con đi
bộ đội ấy. Đâu phải ai ai cũng tưng bừng vui vẻ đưa con đi được. Mình nuôi con
rồi mình biết chứ. Nuôi con đến 17-18 tuổi mình đưa đi chiến trường thì đâu có
phải dễ. Cứ nói ngay như Hoàng Nhuận Cầm, thời kỳ cậu ấy đi bộ đội, tôi đến khổ
với Hoàng Giác (nhạc sĩ Hoàng Giác là thân phụ của nhà thơ Hoàng Nhuận Cầm -
HTQ). Ông ấy lo lắm, không thể tưởng tượng được, mà đúng như thế thật. Suốt
ngày đến cơ quan lo cho con không biết hiện nay ở đơn vị nào, đi đâu. Người ta
lo lắm vì đó là cả sinh mạng con người. Cái đó thì mình nói chưa ra được hết.
@ Nhìn lại các tác
phẩm của mình, ông có muốn thay đổi một chút gì không?
- Xưa nay trong các tác phẩm
tôi viết thường có nhiều mặt. Tất nhiên không nói đến cùng, tức là vẫn có sự
nhân nhượng, có người tốt, người xấu rồi dần dà thành tốt. Nhưng trong cuộc
sống cũng có cái nó xấu mãi, không tốt được. Có những bi kịch anh giải quyết
được, nhưng trái lại, có những bi kịch anh phải chịu mãi. Cái đó ngày xưa tự
tôi cũng nhìn thấy như thế.
@ Ông có cảm giác
rằng trong sách, đôi khi ông tự muốn vượt qua khỏi giới hạn thiên định của mình
không?
- Có chứ. Nhưng thực ra đối
với người viết, quan trọng nhất là nói thế nào để người ta đỡ hiểu lầm. Khi
viết, anh phải vượt khỏi rất nhiều quan niệm đang rất được trân trọng đương
thời. Anh phải vượt qua rất nhiều thứ trói buộc. Tất nhiên, người nào cũng bị
buộc trong một cái nhất định, đâu có thể vượt hết được. Nhưng dù sao mình vẫn
muốn tìm ra một chân trời nào đó cho thoả sức mơ mộng. Nhưng bảo đạt tới mức độ
để thành ra được một hình tượng gì đó thì mình cũng chưa có gan làm. Tôi sợ
mình làm thất bại hoặc làm như thế có thể phải dỡ bỏ thứ này thứ khác, có khi
lại gây sự hiểu lầm. Tôi vẫn biết cái mặt hạn chế của tôi và tôi cũng biết những
cái vùng biên, những ràng buộc mà tôi không thể vượt qua được.
@ Ông từng viết
rằng có những tác giả thường viết những điều mà mình không làm được trong đời
thực. Ông định nói tới ai vậy?
- Không, tự tôi nói về tôi đấy.
@ Đôi khi để tiếp
tục làm việc thì cần phải không nghe những người bậc đàn anh?
- Vẫn nghe nhưng không để cho
họ quyết định được của mình, miễn là báo ấy và nhà xuất bản ấy đồng ý in là
được rồi. Thế thôi. Thế còn có thể bảo đó là thơ, có thể bảo đó là tiểu thuyết,
thì tuỳ họ. Họ cũng không thể nào là một ông quan, ông quan to; cũng không phải
là cái bậc giám sát, ông quy định được. Ngay tác phẩm của họ rồi sau này là cái
gì thì người ta đâu có biết được. Cho nên mình không nên khoe ai cả, cứ lẳng
lặng mà làm. Thế rồi bạn đọc, rồi thời gian cũng thẩm định đúng hết. Được cái
là tôi cũng thấy người viết cũng hay ở chỗ là nó còn có thời gian, chữ nghĩa nó
còn đấy mà chữ nó có đi đâu mất đâu. Thời gian, rồi còn có bạn đọc, bạn đọc hôm
nay, bạn đọc mai sau. Thế có khi còn có những người, người ta thông cảm được
thì sao. Thế nên cái việc đó không cần nghe ai, tức là cứ viết cái gì mình cảm
thấy mình thích. Nó đúng là của mình thật chứ không phải là của ai khác. Của
mình thật có khi là đồ rởm, là vì mình đúng là đồ rởm thật thì mình chịu vậy
thôi. Còn nếu nó là cái mình chưa biết cách nói thì sẽ có lúc mình biết cách...
Phùng Gia Lộc người nhỏ thó, ốm yếu, gầy gò; nước da xanh xám, thở lúc nào cũng nặng nhọc, khò khè suốt ngày vì bị hen suyễn nặng… Thế nhưng, bên trong con người có bề ngoài mảnh khảnh ốm o ấy lại luôn là một tấm lòng nồng hậu, một tinh thần sục sôi chống lại cái ác, không chịu được sự bất công, ngang ngược của bọn quan lại, cường hào mới… Giai đoạn quyết liệt nhất, sau khi đăng “Cái đêm hôm ấy đêm gì”, Phùng Gia Lộc phải trốn ra Hà Nội… Tôi vẫn nhớ như in cái cảnh về quê của Phùng Gia Lộc sau những ngày trốn tránh. Vợ anh chạy từ đâu về không biết, mặt mày hốt hoảng, tất tả, tiêu điều không khác gì chị Dậu trong Tắt đèn ngày trước. Mấy đứa con ngơ ngác, lạ lẫm trước đoàn khách xe pháo, hàng hóa lềnh kềnh đầy một khoảng sân đất trước nhà. Nhà anh xiêu vẹo hơn nhà chị Dậu…
Khi xe Vũ xuống dốc cầu qua địa phận xã Ngọc Châu thì phải dừng lại, vì chiếc xe tải phía trước thắng gấp để tránh hai phụ nữ đèo nhau bất chợt vượt qua mặt vào mép đường. Cũng vừa lúc đó phía sau xe Vũ có một chiếc xe tải lớn chở than của một công ty ở thị xã Hòn Gai (Quảng Ninh) do tài xế Nguyễn Công Thành lái, chạy với tốc độ lớn xuống dốc cầu, không kịp thắng đã lao đâm vào phía trái đuôi xe của Vũ. Bị tác động bởi một lực quá lớn, vợ chồng Doãn Châu ngồi sau lái xe ngã bổ vào thùng xe, còn vợ chồng Quỳnh - Vũ và con trai Quỳnh Thơ ngồi bên phải bị hất tung lên khỏi xe rơi xuống mặt đường.
Tôi rất ngạc nhiên khi tôi vừa đưa mấy bài viết lên trang, có kẻ đã nhắn vào điện thoại tôi: “Câm mồm đi thằng già!”. “Muốn ăn bánh ô tô không?”. Trên mạng xã hội, xuất hiện một số người xuyên tạc, thóa mạ, cho là tôi kích động chiến tranh rồi vu đòn chính trị. Kỳ lạ vậy …
Báo Dân Việt đưa tin: “Chiều 3.3, bà Nguyễn Phương Hằng, Phó Tổng giám đốc Công ty Du lịch Đại Nam , cho biết chính thức kiện ông Minh Diện vì cố tình xâm phạm đời sống riêng tư và bịa đặt nhằm làm nhục người khác. Ngoài ra, ông Minh Diện còn bị tố không có văn hóa và hủy hoại danh dự người khác không phải riêng với vợ chồng ông Huỳnh Uy Dũng - bà Nguyễn Phương Hằng ( ảnh bên ) mà kể cả một số cá nhân. Bà Nguyễn Phương Hằng cho biết: “Ông Minh Diện đã lôi kéo một số người nhằm phá hoại khu du lịch Đại Nam đang hoạt động. Tôi tin luật pháp nghiêm minh sẽ trừng trị thích đáng những kẻ chuyên đi phá hoại cuộc sống bình yên của người khác”. Được biết, ông Minh Diện đã có nhiều bài viết đăng trên blog B. liên quan đến một số cá nhân và gần đây ông Minh Diện có bài viết “Ân oán còn lâu”. Theo vợ ông Huỳnh Uy Dũng, bài viết toàn là những chuyện bịa đặt, hư cấu nhằm bôi nhọ, xúc phạm nhân phẩm và vu khống, phá hoại hạnh phúc gia đình vợ chồng ông đồng thời phá hoại hoạt động sản xuất kinh...
Ngụy biện hay lỗi ngụy biện (fallacy) trong thảo luận và trình bày ý kiến là một vấn đề nghiêm trọng, xảy ra trên bình diện đại số đông người Việt, không chỉ ở cả dân thường mà kể cả các vị có bằng cấp, học thức, hot bloggers hay như từ cách lý luận báo chí trong nước vốn là một núi ngụy biện. Ngụy biện (fallacy) nguy hiểm hơn, còn khiến người nhiễm phải nó có một lối tư duy suy nghĩ và phân tích vấn đề sai lệch. Người càng ít tranh luận thì càng khó có khả năng phát hiện lỗi ngụy biện trong tư duy của mình để chỉnh sửa. Đó là lý do ta thấy nhiều người ít nói, nhưng một khi mở miệng thì sẽ đuối lý và kết quả là chỉ biết chửi thề, xúc phạm, tấn công cá nhân người khác mà thôi. Chúng ta thử xem xét vài ngụy biện của những người tham gia buổi “đấu tố” mang tên “Chia sẻ trên mạng xã hội để làm gì?” trong chương trình “60 phút mở” của VTV đang gây xôn xao dư luận.