Nghe người ta đồn chỉ cần viết được một cuốn sách sẽ có ăn ba bữa mỗi ngày, Quản Mạc Nghiệp quyết tâm từ bỏ thân phận mục đồng. Năm 1973, lúc tròn 18 tuổi, Quản Mạc Nghiệp xin mẹ 5 hào ra hợp tác xã mua một lọ mực và một cuốn vở rồi nằm bò ra phản bắt đầu công việc viết văn. Tác phẩm đầu tiên của Mạc Ngôn có tên gọi "Bên bờ sông Giao Lai", với chương đầu tiên "Đại hội chi bộ tết Nguyên Tiêu, âm mưu của địa chủ bị đập tan" và dòng đầu tiên "Thuỷ lợi là mạch máu của nông nghiệp". Thế nhưng, nghề văn đối với một chàng trai nông thôn quả không đơn giản. Quản Mạc Nghiệp vào bộ đội, mất nhiều năm nghiền ngẫm mới dám cầm bút tiếp. Từ năm 1978 đến năm 1980, nhiều truyện ngắn và kịch của Mạc Ngôn gửi đến các toà soạn báo đều bị trả lại. Mãi đến mùa thu năm 1981, Mạc Ngôn mới có truyện ngắn "Đêm mưa xuân bay bay" đăng trên tạp chí "Đầm sen" của thành phố Bảo Định, tỉnh Hà Bắc!


PHẬN NGƯỜI PHÍA SAU GIẢI NOBEL VĂN CHƯƠNG 

TUY HÒA

Giải Nobel Văn chương 2012 được trao cho nhà văn Mạc Ngôn, một tác giả Trung Quốc rất quen thuộc với bạn đọc Việt Nam. Nhiều tác phẩm của Mạc Ngôn đã khiến công chúng nước ta say mê và tán thưởng như "Cao lương đỏ", "Báu vật của đời", "Đàn hương hình", "Sống đoạ thác đày"....

Mạc Ngôn tên thật Quản Mạc Nghiệp, sinh năm 1955 tại thôn Cao Mật thuộc địa hạt Duy Phường, tỉnh Sơn Đông. Bị dang dở học hành, tuổi thơ và tuổi trẻ của Mạc Ngôn lầm lũi và vất vả như một người nông dân thực thụ. Chính Mạc Ngôn kể về nơi chôn nhau cắt rốn và những ngày tháng lam lũ: "Thôn tôi là giáp giới giữa ba huyện. Ra khỏi thôn đi về phía Đông là một đồng cỏ mênh mông. Hễ mùa xuân đến trên thảm cỏ xanh mênh mông lại dập dờn những cánh hoa, trông chẳng khác gì một tấm thảm khổng lồ. Tôi và hai con cừu đã tìm thấy ở nơi đây một khu vườn vui thú. Hai con cừu quên hết những nỗi sầu khổ, gặm no cỏ rồi nhảy nhót nô đùa. Tôi cũng vui sướng nằm lăn mình trên thảm cỏ". Tuy nhiên, Sơn Đông vốn là một cái nôi của văn minh Hoa Hạ, nơi đây từng sinh ra những nhân vật lừng lẫu trong lịch sử Trung Quốc như Quản Trọng, Mạnh Thường Quân, Khổng Tử, Mạnh Tử, Ngô Khởi, Tôn Vũ, Tôn Tẫn, Gia Cát Lượng, Tống Giang... Vì vậy, Mạc Ngôn cũng là một sản phẩm địa linh nhân kiệt!

Nghe người ta đồn chỉ cần viết được một cuốn sách sẽ có ăn ba bữa mỗi ngày, Quản Mạc Nghiệp quyết tâm từ bỏ thân phận mục đồng. Năm 1973, lúc tròn 18 tuổi, Quản Mạc Nghiệp xin mẹ 5 hào ra hợp tác xã mua một lọ mực và một cuốn vở rồi nằm bò ra phản bắt đầu công việc viết văn. Tác phẩm đầu tiên của Mạc Ngôn có tên gọi "Bên bờ sông Giao Lai", với chương đầu tiên "Đại hội chi bộ tết Nguyên Tiêu, âm mưu của địa chủ bị đập tan" và dòng đầu tiên "Thuỷ lợi là mạch máu của nông nghiệp". 

Thế nhưng, nghề văn đối với một chàng trai nông thôn quả không đơn giản. Quản Mạc Nghiệp vào bộ đội, mất nhiều năm nghiền ngẫm mới dám cầm bút tiếp. Từ năm 1978 đến năm 1980, nhiều truyện ngắn và kịch của Mạc Ngôn gửi đến các toà soạn báo đều bị trả lại. Mãi đến mùa thu năm 1981, Mạc Ngôn mới có truyện ngắn "Đêm mưa xuân bay bay" đăng trên tạp chí "Đầm sen" của thành phố Bảo Định, tỉnh Hà Bắc!

Mạc Ngôn cho rằng, tác phẩm giúp ông nổi tiếng là "Củ cà rốt trong suốt" viết về quãng đời nhọc nhằn của chính mình. Tuy nhiên, tác phẩm đưa tên tuổi Mạc Ngôn bay khắp lãnh thổ Trung Quốc và vươn ra quốc tế là "Cao lương đỏ". Khi "Cao lương đỏ" được trao giải thưởng Mao Thuẫn năm 1986 thì Trương Nghệ Mưu (khi đó chỉ được biết đến với một vai diễn trong phim "Giếng cũ" của đạo diễn Ngô Thiên Minh) đã đến khu tập thể Mạc Ngôn đang sống để đề nghị làm phim. Qua diễn xuất của Củng Lợi và Khương Văn, bộ phim "Cao lương đỏ" đã được trao Cành Cọ Vàng tại Liên hoan phim Cannes năm 1994, và từ đó cả Trương Nghệ Mưu và Mạc Ngôn cùng vang danh.

Trong "Cao lương đỏ" có nhân vật Vương Văn Nghĩa được Mạc Ngôn lấy nguyên mẫu cả tình tiết và tên gọi từ người hàng xóm trong thôn Cao Mật. Khi "Cao lương đỏ" nổi tiếng, Vương Văn Nghĩa đã vác gậy sang gặp cha của Mạc Ngôn để hỏi tội vì sao ông ta còn sống sờ sờ mà dám viết là bị chết. Chẳng biết cách nào giải thích, cha của Mạc Ngôn đành bảo: "Con cái lớn rồi, không thuộc về cha mẹ nữa, chú hãy đợi nó về rồi tính sổ với nó!". Diễn biến tiếp theo được Mạc Ngôn kể lại như sau: "Khi về thăm nhà, tôi mua hai chai rượu đến biếu chú Vương Văn Nghĩa, cũng là có ý xin lỗi. Tôi nói: "Chú Vương, cháu muốn viết tốt cho chú, xây dựng chú thành một anh hùng". Ông nói: "Anh hùng cái gì? Vừa mới nghe thấy tiếng súng đã bịt chặt tai thét lên: "Tư lệnh, tư lệnh, đầu tôi không còn nữa rồi!". Thế mà anh hùng à?". Tôi nói: "Thì về sau chú chẳng dũng cảm hy sinh là gì?". Chú Vương nói: "Thôi, dù sao con người tôi thì anh đã viết là chết rồi, bố con tôi chẳng muốn so đo với anh nữa. Như thế này đi, anh mua thêm cho tôi hai chai rượu nữa, nghe nói anh đã kiếm được khá nhiều tiền từ cuốn truyện này!". 

Mạc Ngôn tiếp tục khai thác mảnh đất quê hương thành những tác phẩm tiếp theo như "Châu chấu đỏ", "Củ cải đỏ", "Bông hoa trắng", "Hoan lạc", "Quốc tửu"... Và rồi Mạc Ngôn ngộ ra: "Sau một thời gian, tôi phát hiện nếu chỉ viết về quãng đời của mình và những chuyện vụn vặt ở quê mình cũng chẳng phải là một cách hay. Người khác không chán thì bản thân tôi cũng đã chán. Tôi muốn tác phẩm về Cao Mật của mình là một khái niệm mở, là một khái niệm văn học chứ không phải khái niệm địa lý. Tôi muốn sáng tác về Cao Mật là đi vào thế giới nhân văn có liên quan mật thiết với số phận tôi. Nó không có bức tường ngăn, thậm chí không có biên giới. Dưới ánh sáng tư tưởng ấy, tôi viết "Báu vật của đời"!".

Mạc Ngôn nung nấu viết "Báu vật của đời" để tri ân người mẹ suốt đời chật vật cam chịu của ông. Cuốn sách được ấp ủ mười năm kia chỉ tuôn trào ào ạt hơn 50 vạn chữ khi mẹ của Mạc Ngôn qua đời vào mùa thu 1994. Nhớ thương mẹ, Mạc Ngôn ngồi xuống viết một mạch suốt ba tháng ròng rã. Hoàn cảnh viết "Báu vật của đời" được Mạc Ngôn miêu tả: "Khi tỉnh thì viết bằng tay, khi ngủ thì viết bằng mơ trong một mảnh sân đầy tiếng chó sủa và bên chiếc lò sưởi cháy rừng rực tại quê hương Cao Mật. Tác phẩm hoàn thành và tôi đã tăng lên 10 cân. Nhiều người đã không thể tưởng tượng nổi, bản thân tôi cũng không thể tưởng tượng nổi. Từ đó về sau tôi biết rằng mình khác với mọi người ở chỗ, nhà văn khác khi sáng tác thì gầy đi, còn tôi thì lại béo lên!"

Vừa được ấn hành, "Báu vật của đời" với tên gốc là "Phong nhũ phì đồn" đã trở thành một hiện tượng của văn học Trung Quốc và nhanh chóng được chuyển ngữ nhiều quốc gia trên thế giới. Có một cảnh tượng ám ảnh trong “Báu vật của đời”: khi nhân vật nữ chính Thượng Quan Lỗ Thị sinh đôi, con lừa của nhà này cũng đang sinh con. Cả người và lừa đều khó sinh, nhưng bố mẹ chồng của Thượng Quan Lỗ Thị lại quan tâm đến con lừa hơn, họ đã mời bác sĩ thú y đến chăm sóc con lừa, nhưng chẳng hề hỏi han gì đến con dâu. Một tiếng kêu cứu về nhân phẩm lúc nào cũng dễ bị đe doạ ở những nơi tăm tối, không phải chuyện riêng của Cao Mật. Khi được mời thuyết giảng tại Mỹ, Mạc Ngôn khẳng định: "Một nhà văn thế kỷ 21 có trách nhiệm và hoài bão sẽ đứng ở vị trí cao hơn, nhìn xa hơn. Họ sáng tác trên lập trường của nhân loại, điều mà họ trăn trở là số phận nhân loại, họ nâng tác phẩm lên độ cao của triết học. Chỉ có sự sáng tác như vậy mới có giá trị. Một nhà văn để sự chú ý của mình vào nghiên cứu chính trị, kinh tế và lịch sử chắc chắn sẽ khiến cho tác phẩm của mình sai đường lạc lối. Điều mà nhà văn chú ý luôn luôn nên là số phận và tao ngộ của con người, cũng như những biến dị trong tình cảm của con người và sự lạc mất về lý tính của họ trong một xã hội đầy rối ren".

Sau "Báu vật của đời", Mạc Ngôn có những tác phẩm khác như "Đàn hương hình", "Bốn mươi mốt phát đạn pháo", "Thập tam bộ", "Sống đoạ thác đày", "Cây tỏi nổi giận", "Ếch"... Thái độ cầm bút bênh vực cho lẽ phải và phẩm giá của Mạc Ngôn đã được độc giả khắp nơi tán thưởng. Và giải Nobel văn học năm 2012 dành cho Mạc Ngôn chính là kết quả ghi nhận cụ thể nhất!