Cách đây ba năm, tôi về Cao Bằng - quê tôi - công tác. Đó là
chuyến đi đã làm tôi đích thực trở thành kẻ nói dối - nói dối một cách thành thạo
- tỉnh bơ. Hôm đó, tôi mượn được cái xe máy định lên một bản của người Dao đỏ để
viết bài. Đang đi trời bỗng đổ mưa, giữa rừng rú chẳng có chỗ nào lánh tạm, lại
thêm cái xe máy dở chứng nên tôi thất thểu dắt bộ. Mãi rồi cũng vào được một
gia đình người Dao ven đường. Đúng hơn, đó là một cái quán bán hàng trên đỉnh
đèo có cái tên rất đẹp: Cao Sơn. Chủ nhân là đôi vợ chồng người Dao đỏ còn rất
trẻ. Đêm đó, anh chủ nhà nhiệt tình tiếp tôi. Họ mổ gà, rót rượu thết đãi tôi
như người thân lâu ngày mới gặp. Trong cuộc nhậu, tôi cao hứng lấy máy ảnh chụp
cho cả gia đình anh, rồi hứa rằng ngay khi về tới thành phố sẽ làm ảnh gửi lên.
Đã thế còn ghi chép địa chỉ rất cẩn thận. Tôi không nhớ rõ trong lúc ngà ngà
men rượu ngô nhắm thịt gà luộc mình đã nói những gì, đã hứa những gì, nhưng chắc
chắn đã hứa việc gửi ảnh cho người ta.
NỬA ĐÊM SỰC TỈNH
A SÁNG
Thế rồi, tôi về thành phố: một năm, hai năm, rồi ba năm. Câu
chuyện gửi ảnh ấy tôi quên khuấy, thỉnh thoảng mở máy tính lục tìm tư liệu vẫn
thấy những bức ảnh đó. Người chủ nhà cười rất tươi, cô vợ trẻ e thẹn và hai đứa
con của họ ngơ ngác lọ lem. Tôi có dừng lại và tự đỏ mặt trước cái nhìn của họ
từ màn hình máy tính. Hình như họ nói với tôi: “Mày là thằng nói dối. Thằng nói
dối, ảnh của tao đâu?”. Nhưng cái sự xấu hổ cũng nhanh chóng đi qua, tôi phải
làm việc khác và lại một cái tặc lưỡi: quan trọng gì đâu.
Cứ thế, cho đến vừa rồi về quê có chút việc. Tôi lang thang
ra chợ tìm mua vài thứ, bỗng một ai đó vỗ vai tôi và cười rất tươi. Tôi không
thể nhớ nổi người này, nên hỏi tỉnh bơ: “Anh là ai thế nhỉ?”. Người kia vẫn
tươi cười rồi nói: “Tao đây mà… Phiên đây mà…”. Tôi vẫn không nhận ra, còn cảm
thấy khó chịu vì con người kỳ lạ này. Anh ta nói tiếp: “Nhà tao ở đỉnh Cao Sơn ấy,
cái hôm trời mưa ấy… Mà chẳng thấy mày gửi ảnh cho tao gì cả…”. Tôi giật mình,
đúng rồi anh ta là Triệu Tài Phiên, nhà ở đỉnh Cao Sơn, người đã thết đãi tôi
ngày ấy, người mà tôi đã hứa gửi ảnh, mà thỉnh thoảng tôi vẫn thấy đôi mắt tươi
cười của họ trên màn hình máy tính ở nhà tôi…
Phải, đã ba năm nay, tôi không còn nhớ chuyện này. Ở thành
phố ba phút có thể quên ngay một điều tồi tệ mình vừa trải qua, ba ngày có thể
đã hàng ngàn lời nói dối và ba năm thì không thể nhớ nổi chuyện gì. Con người sống
như cỗ máy, hoạt động một cách cơ học, vô cảm. Và những chuyện cần thiết chúng
ta lại tự coi như rất nhỏ, chẳng quan trọng gì. Còn cái anh chàng người Dao - Triệu
Tài Phiên kia ba năm rồi vẫn nhớ tôi, nhớ tới lời hứa của tôi.
Với người miền núi, lời hứa thật quan trọng, nó tượng trưng
cho lòng tự trọng, sự kiêu hãnh, tính trung thực… còn nhiều thứ nữa tôi không đủ
sức kể ra vì tôi đâu còn là chính mình nữa. Những gì tinh khiết nhất, đẹp đẽ nhất
mà tinh hoa của rừng núi ban tặng đâu còn thấm đẫm trong tâm hồn tôi. Tôi là kẻ
nói dối! Kẻ bịa đặt thành thạo - tỉnh bơ - trơ trẽn nhất. Tôi không xứng đáng
nhận cái cười niềm nở của anh bạn người Dao đỏ kia. Nếu Triệu Tài Phiên biết được
sự thật, anh ta sẽ chẳng bao giờ chào tôi, và khẩu súng kíp kia sẵn sàng nhả đạn
vào bộ mặt trơ trẽn của tôi. Nhưng Triệu Tài Phiên ơi! Anh sẽ không bao giờ nhận
ra tôi nói dối vì tôi đang nguỵ trang bằng chính khuôn mặt của tôi. Và đôi lúc
tôi nghĩ bộ mặt giả dối ấy là sự thật - một sự thật “sinh động” mà tôi đã cất
công xuống phố mới có nổi. Tôi là ai? Tôi không biết! Tôi chỉ nhận ra chính
mình khi nhìn thấy cái cười thân thiện của anh mà thôi.
Lần này tôi như muốn chui xuống đất, không biết phải nói với
Triệu Tài Phiên thế nào. Tôi lại bịa, lạy ông Trời, tôi lại bịa! Tôi bịa rằng
vì đi đường bị mưa nên ảnh hỏng hết rồi, không gửi được. Triệu Tài Phiên vẫn
tươi cười nói: “Hỏng rồi à? Hỏng thì thôi… Uống rượu với tao không?”. Tôi không
thể từ chối, dù rất muốn trốn chạy. Tôi đã nhắm mắt uống vài chén rượu đắng ngắt
mà đáng ra phải ngọt lịm. Nhưng ngay lập tức tôi lại biện hộ cho bản thân mình:
Có gì đâu, chuyện thường ấy mà… Cứ thế tôi tự nhủ, tự tha thứ cho chính mình vì
lúc này tôi đâu còn biết xấu hổ.
Khi về, có cái gì đó đang ù ù bên tai tôi: nói dối, bịa đặt,
chuyện thường ấy mà. Nhưng mỗi lần tôi nghĩ thế, cái cười hồn nhiên của Triệu Tài
Phiên lại hiện về. Tôi biết Tài Phiên đã tin tôi, nghĩ rằng ảnh hỏng thật, mà hỏng
thì thôi chứ còn làm gì, uống rượu đã. Họ là thế, giản dị, chân thành, không
nghi hoặc. Còn tôi - tôi là ai? Sự bịa đặt này có quan trọng gì? Nhưng tôi lờ mờ
nhận ra rằng, tư duy của tôi đã tồi tệ lâu rồi.
Ngay khi viết những dòng này, tôi đã lần tìm đến mấy cái ảnh
năm nào, vẫn đôi mắt ấy, cái cười ấy và… uống rượu với tao không - họ không biết
nói dối. Nhưng tôi cũng không dám tin rằng, ngay ngày mai sẽ đi làm ảnh và gửi
cho Tài Phiên vì ngày mai là cái gì tôi cũng không biết nữa.
Ngày mai nếu nhận được một cú điện thoại của ai đó, rất có
thể tôi lại nói mình đang ở Hải Phòng, hoặc đâu đó không gặp được. Nói dối - rất
bình thường - thường lắm nên nó đúng thì phải. Tôi tin, nhiều người ở thành phố
cho đó là chuyện bình thường. Một lời hứa thoảng qua, làm sao nhớ được, cả ngàn
việc đang chờ. Với cái cớ bận bịu đó chúng ta đã bỏ qua bao nhiêu điều tưởng
như bình thường, và băng qua nó một cách tỉnh bơ. Vậy, chúng ta có phải thanh lịch,
văn minh như những gì vẫn nói?
Ở thành phố cách tốt nhất, an toàn nhất nên để người khác
không biết mình nghĩ gì. Điều này tôi đã tự học được và thấy rất hiệu quả. Tôi
đã áp dụng nó để sống một cách vị kỉ ngay với chính bản thân mình.
Ngày trước, thỉnh thoảng họp cơ quan, bàn về chuyên môn, tôi
có thẳng thắn nhận xét vài điểm. Tất nhiên những điều tôi nói, nhiều người ngồi
đó biết cả, họ luôn giỏi hơn tôi mà. Nhưng cứ sau buổi họp, một vài người lại
nhắc nhẹ: lần sau đừng nói thế. Có người còn cáu kỉnh, thậm chí nổi khùng vì đụng
chạm đến họ, mà rõ ràng tôi đúng - trăm phần trăm tôi đúng. Ban đầu tôi rất ngạc
nhiên, bực tức, thất vọng… Nhưng rồi dần dần tôi hiểu ra: im lặng là an toàn nhất!
Ôi! Thật phức tạp, mà cũng đơn giản vô cùng. Về sau, khi họp người ta bắt tôi
phải nói, tôi đã trơ trẽn khen vống lên, khen nức nở, hoặc nói mà chẳng ai hiểu
gì, nói làm sao cho người ta tưởng mình mắc bệnh down càng tốt. Thế là tôi an
toàn, với tôi nó càng an toàn tuyệt đối vì vẫn mang trên người cái mác dân tộc
thiểu số ấy mà.
Ngày trước, mỗi khi nhìn thấy tai nạn trên đường phố, tôi
cũng hay ngó nghiêng xem có giúp gì được người ta không. Nhưng bây giờ tôi “điếc”
đến nỗi người ta lăn đùng ra trước mặt cũng tỉnh bơ. Tôi chỉ liếc một cái rồi
vù đi luôn, mắt tôi còn đó nhưng mù thật. Đôi khi nghĩ lại những chuyện như thế,
tôi thấy lạnh ở sống lưng, có cái gì đó đang chạy ngược sống lưng của mình, và
nó lan toả như một làn khói bẩn đục, âm u bám lấy vỏ não của tôi. Hình như tôi
mù thật!
Những lúc hốt hoảng như vậy, tôi lại lẩm bẩm một mình bằng
tiếng Tày. Tôi tự trấn an mình bằng ngôn ngữ của dân tộc tôi. Cái âm điệu ngọt
ngào ấy được thốt ra từ vòm họng chai sạn lời nói dối ấy như có phần làm mát dịu
tâm can. Những tiếng thì thào mềm mại của tiếng Tày như lời cầu nguyện của tôi
trước Đin Phạ (ông Trời).
Tôi muốn trở lại chính mình, muốn trong trẻo và ngờ ngệch
như những ngày vắt khăn mặt trên vai thất thểu về thành phố. Nhưng tôi đâu biết
rằng, ở cái thành phố khói bụi này, có quá nhiều “nguyên tử” mang tình thần nói
dối từng ngày bám chặt lấy thân thể tôi, rồi vỏ não của tôi, rồi những nếp nhăn
trong óc tôi… dù đôi lúc nhận ra nhưng không tài nào gỡ nổi. Tôi chỉ còn hy vọng
vào những lời câu nguyện bằng tiếng Tày thân yêu ấy. Có thể nó như một liều thuốc
mang phép thiêng - từng ngày - từng ngày - chống lại căn bệnh “ung thư nói dối”
kia. Chỉ hy vọng thế thôi, còn giờ đây tôi vẫn áp dụng chiêu thức: “mắt mù -
tai điếc - an toàn lắm”. Cái chiêu thức này cho phép tôi đi qua cuộc sống đô thị
một cách an toàn, nhưng cũng như khi người ta bỏ con cá chuối vào nồi nước lạnh
rồi từ từ đun lên. Nước cứ thế nóng lên nhưng con cá kia không hề nhúc nhích,
cho đến khi nó chín nhừ vì nó không cảm nhận được sự nóng lên ấy sẽ giết chết
nó. Tôi rất sợ hãi khi nghĩ như vậy.
Phùng Gia Lộc người nhỏ thó, ốm yếu, gầy gò; nước da xanh xám, thở lúc nào cũng nặng nhọc, khò khè suốt ngày vì bị hen suyễn nặng… Thế nhưng, bên trong con người có bề ngoài mảnh khảnh ốm o ấy lại luôn là một tấm lòng nồng hậu, một tinh thần sục sôi chống lại cái ác, không chịu được sự bất công, ngang ngược của bọn quan lại, cường hào mới… Giai đoạn quyết liệt nhất, sau khi đăng “Cái đêm hôm ấy đêm gì”, Phùng Gia Lộc phải trốn ra Hà Nội… Tôi vẫn nhớ như in cái cảnh về quê của Phùng Gia Lộc sau những ngày trốn tránh. Vợ anh chạy từ đâu về không biết, mặt mày hốt hoảng, tất tả, tiêu điều không khác gì chị Dậu trong Tắt đèn ngày trước. Mấy đứa con ngơ ngác, lạ lẫm trước đoàn khách xe pháo, hàng hóa lềnh kềnh đầy một khoảng sân đất trước nhà. Nhà anh xiêu vẹo hơn nhà chị Dậu…
Báo Dân Việt đưa tin: “Chiều 3.3, bà Nguyễn Phương Hằng, Phó Tổng giám đốc Công ty Du lịch Đại Nam , cho biết chính thức kiện ông Minh Diện vì cố tình xâm phạm đời sống riêng tư và bịa đặt nhằm làm nhục người khác. Ngoài ra, ông Minh Diện còn bị tố không có văn hóa và hủy hoại danh dự người khác không phải riêng với vợ chồng ông Huỳnh Uy Dũng - bà Nguyễn Phương Hằng ( ảnh bên ) mà kể cả một số cá nhân. Bà Nguyễn Phương Hằng cho biết: “Ông Minh Diện đã lôi kéo một số người nhằm phá hoại khu du lịch Đại Nam đang hoạt động. Tôi tin luật pháp nghiêm minh sẽ trừng trị thích đáng những kẻ chuyên đi phá hoại cuộc sống bình yên của người khác”. Được biết, ông Minh Diện đã có nhiều bài viết đăng trên blog B. liên quan đến một số cá nhân và gần đây ông Minh Diện có bài viết “Ân oán còn lâu”. Theo vợ ông Huỳnh Uy Dũng, bài viết toàn là những chuyện bịa đặt, hư cấu nhằm bôi nhọ, xúc phạm nhân phẩm và vu khống, phá hoại hạnh phúc gia đình vợ chồng ông đồng thời phá hoại hoạt động sản xuất kinh
Tôi rất ngạc nhiên khi tôi vừa đưa mấy bài viết lên trang, có kẻ đã nhắn vào điện thoại tôi: “Câm mồm đi thằng già!”. “Muốn ăn bánh ô tô không?”. Trên mạng xã hội, xuất hiện một số người xuyên tạc, thóa mạ, cho là tôi kích động chiến tranh rồi vu đòn chính trị. Kỳ lạ vậy …
Ngụy biện hay lỗi ngụy biện (fallacy) trong thảo luận và trình bày ý kiến là một vấn đề nghiêm trọng, xảy ra trên bình diện đại số đông người Việt, không chỉ ở cả dân thường mà kể cả các vị có bằng cấp, học thức, hot bloggers hay như từ cách lý luận báo chí trong nước vốn là một núi ngụy biện. Ngụy biện (fallacy) nguy hiểm hơn, còn khiến người nhiễm phải nó có một lối tư duy suy nghĩ và phân tích vấn đề sai lệch. Người càng ít tranh luận thì càng khó có khả năng phát hiện lỗi ngụy biện trong tư duy của mình để chỉnh sửa. Đó là lý do ta thấy nhiều người ít nói, nhưng một khi mở miệng thì sẽ đuối lý và kết quả là chỉ biết chửi thề, xúc phạm, tấn công cá nhân người khác mà thôi. Chúng ta thử xem xét vài ngụy biện của những người tham gia buổi “đấu tố” mang tên “Chia sẻ trên mạng xã hội để làm gì?” trong chương trình “60 phút mở” của VTV đang gây xôn xao dư luận.
Khi xe Vũ xuống dốc cầu qua địa phận xã Ngọc Châu thì phải dừng lại, vì chiếc xe tải phía trước thắng gấp để tránh hai phụ nữ đèo nhau bất chợt vượt qua mặt vào mép đường. Cũng vừa lúc đó phía sau xe Vũ có một chiếc xe tải lớn chở than của một công ty ở thị xã Hòn Gai (Quảng Ninh) do tài xế Nguyễn Công Thành lái, chạy với tốc độ lớn xuống dốc cầu, không kịp thắng đã lao đâm vào phía trái đuôi xe của Vũ. Bị tác động bởi một lực quá lớn, vợ chồng Doãn Châu ngồi sau lái xe ngã bổ vào thùng xe, còn vợ chồng Quỳnh - Vũ và con trai Quỳnh Thơ ngồi bên phải bị hất tung lên khỏi xe rơi xuống mặt đường.