Nói đến văn chương Bùi Ngọc Tấn (1934-2014) thì chắc chắn không thể không nhắc “Chuyện kể năm 2000”. Không thở than, không hằn học. Những trang sách chỉ thản nhiên phơi bày cái phần tăm tối, ngột ngạt mà ông bị vây hãm trong đó qua nhiều năm. Nhưng chính vì cái sự thản nhiên đó mà mỗi mỗi câu chữ đều hàm chứa một khối thuốc nổ.
“Chuyện kể năm 2000” của nhà văn Bùi Ngọc Tấn bị xay thành bột, nhưng trước đó Mai Văn Phấn đã kịp gửi cho mình 1 bản photocopy. Hai tập giấy khổ A4 dày cộp, nặng trịch. Cuốn tiểu thuyết mình vừa hào hứng, vừa kinh ngạc đọc một mạch không nghỉ từ đầu tới cuối, vào thời điểm đó, thực sự gây rúng động văn đàn. Và đại hội nhà văn toàn quốc lần thứ 6, cuối năm 2000 - đại hội nhà văn đầu tiên mà mình tham gia - có thể nói là dịp để nhiều cây bút của cả nước… chiêm ngưỡng Bùi Ngọc Tấn.
Mình và
nhà văn Xuân Sách ra Hà Nội trước một ngày. Hai anh em ở trong cái khách sạn tư
nhân xập xệ gần Cửa Nam (ngày hôm sau mới được đến ở 37 Hùng Vương cùng các đại
biểu đi dự đại hội). Xuân Sách có vẻ nóng ruột, ra ra vào vào, châm thuốc liên
tục. Chiều hôm sau, đến 37 Hùng Vương, việc đầu tiên là ông hỏi thăm đoàn nhà văn
Hải Phòng đã lên chưa. Cuối chiều, đoàn Hải Phòng mới tới. Lúc họ xuất hiện ở
chân cầu thang, mình đứng xa xa nhìn. Rồi lững thững đến gần bắt tay, ôm Mai Văn
Phấn. Còn với Bùi Ngọc Tấn, thì... chỉ dám đưa mắt nhìn trộm. Ông nhà văn già
tiếng tăm đang lừng lẫy ấy thấp bé, tóc bạc, gương mặt hằn sâu những nét khắc
khổ.
Trước giờ
cơm chiều, Xuân Sách ở ngoài về, ghé tai mình thì thào: "Tao với Nguyễn Khải
vừa sang gặp Bùi Ngọc Tấn. Vừa đến trước mặt Tấn, Khải lẩm bẩm, chắp tay vái một
vái dài". Nói xong, Xuân Sách cười hức hức, ứa nước mắt.
Ngày hôm
sau, trong hội trường, mình nghe không ít câu hỏi to nhỏ: Bùi Ngọc Tấn đâu, Bùi
Ngọc Tấn ngồi chỗ nào?...
Sau đại hội,
mình lại về Vũng Tàu. Bận tâm với những việc riêng nên ấn tượng về Bùi Ngọc Tấn
cũng dịu dần, mặc dù vẫn nghe dư âm những câu chuyện về ông và cuốn tiểu thuyết
đình đám. Mình đang cố gắng viết một lứa truyện ngắn mới (mới so với mình).
Trong đó có truyện “Lỏng và tuột”. Để ngâm máy tính một thời gian, rồi thử gửi
cho báo Văn nghệ.
Bẵng đi mấy
tháng không thấy tăm hơi, đánh liều gọi anh Nguyễn Trí Huân - anh Huân bấy giờ đang
là Tổng biên tập của báo. Mình quen biết anh từ lúc anh còn biên tập trang văn
xuôi của tạp chí Văn nghệ Quân đội. Nghe mình hỏi về cái “Lỏng và tuột”, anh chỉ
cười và nói gọn lỏn: ông viết kinh bỏ mẹ. Thôi, thế là toi rồi! Mình biết cái
truyện của mình “kinh” ở chỗ nào. Mà kinh như thế thì chắc đến 90% không dùng được.
Không sao.
Quên đi. Viết những cái khác. Mình đang đà viết. Nhưng không ngờ, chỉ ít lâu
sau, Văn nghệ in “Lỏng và tuột”. Thích nhất là in nguyên vẹn, không thêm bớt, sửa
chữa một dấu phẩy!
Một hôm,
quãng 10 giờ đêm, lúc sắp đi ngủ, chuông điện thoại bàn ở nhà bỗng réo.
Đầu dây đằng
kia, giọng người lạ:
- Tớ không
biết số của cậu, phải hỏi Đình Kính.
- Dạ. Xin
lỗi…?
- Tấn đây.
Bùi Ngọc Tấn.
Giật mình.
Chỉ kịp thốt câu “em chào anh”. Chưa biết ông Tấn gọi vì việc gì, mà lại gọi vào
giờ này, đã thấy ông cười khùng khục:
- Tớ vừa
phải dựng bà xã dậy, đọc cho bà ấy nghe cái truyện của cậu trên Văn nghệ…
Cú điện
thoại lúc đêm hôm của một nhà văn như Bùi Ngọc Tấn khiến mình xúc động và nhớ mãi.
Sau này, khi viết vài trang giới thiệu tập truyện “Lỏng và tuột”, ông còn nhắc
lại những điều đã nói trong cú điện thoại hôm đó.
Người đọc
hâm mộ Bùi Ngọc Tấn ở Vũng Tàu không ít. Ông vào Vũng Tàu đâu như 3 lần, hai lần
có mặt mình và một lần không.
Lần đầu ông
đưa cả vợ theo. Gặp bà, mình hiểu ngay vì sao trong “Chuyện kể năm 2000”, ông có
những trang tuyệt vời viết về bà. Hiền hậu, tận tụy, tình yêu của bà dành cho
chồng chính là thứ thần dược làm dịu đi những uất nghẹn, những vết thương bỏng
rát trong cuộc đời ông.
Mình và mấy
người bạn thân thiết đưa ông bà đi chơi loanh quanh trong thành phố, rồi sang xã
đảo Long Sơn.
Ăn trưa ở
nhà hàng trên bè nổi bập bềnh cửa sông Dinh đổ ra biển. Gió biển mát rượi. Hải
sản Long Sơn phong phú, tươi ngon nổi tiếng. Ông Tấn ngạc nhiên ngắm nghía đĩa
mồi dọn ra trước nhất, tò mò hỏi cái con có vỏ vân vân óng ánh, to bằng ngón chân
cái, bày lổn nhổn trong đĩa là con gì? Mình ghé tai ông nói thầm: “Dân ở đây gọi
là con Lồn tiên”.
Tên khai
sinh của loài nhuyễn thể này, họ hàng gần với nghêu sò ốc hến. Có người sợ tục,
gọi trại đi thành con bướm tiên. Nhưng mình thích cái tên gốc của nó. Tục hay
không là ở trong tâm mình.
Lồn tiên hấp
mỡ hành.
Xuân Sách
từng thưởng thức. Nguyễn Quang Thân từng thưởng thức. Dạ Ngân cũng từng được nếm.
Rồi một số bạn bè khác của mình khi đến Vũng Tàu, qua Long Sơn.
Giờ là Bùi
Ngọc Tấn.
Ông ngạc
nhiên, nhấm nháp thử món ăn lạ, rồi gắp vào bát cho bà. Mình kể ông nghe, vùng
này không chỉ có lồn tiên, mà còn có vú nàng và đồn đột. Cả hai đều có thể chế
biến thành món ăn tuyệt vời. Vú nàng ở Côn Đảo khá nhiều người biết. Nhưng đồn đột
thì ít biết hơn. Đồn đột sống trong sình lầy, ngay chân những gốc mắm mọc ven sông.
Các bà các cô đi mò ngao, vớ được con đồn đột to bằng cây xúc xích cỡ lớn, thể
nào cũng giơ lên, vuốt vuốt cho mấy cái. Cu cậu đang mềm èo bỗng nở ra, cương lên
như khúc dồi lợn trong nồi nước sôi. Bóp cho phát, tia nước từ trong khúc dồi vọt
vào mặt đứa bên cạnh.
Nghe tả, cả
mâm cười rũ. Cười xong, ông Tấn trầm ngâm giây lát rồi thủng thẳng:
- Độc đáo.
Văn chương cũng phải như thế. Như lồn tiên, như đồn đột. Hiếm. Lạ. Ngon.
Nói đến văn
chương Bùi Ngọc Tấn thì chắc chắn không thể không nhắc “Chuyện kể năm 2000”. Không
thở than, không hằn học. Những trang sách chỉ thản nhiên phơi bày cái phần tăm
tối, ngột ngạt mà ông bị vây hãm trong đó qua nhiều năm. Nhưng chính vì cái sự
thản nhiên đó mà mỗi mỗi câu chữ đều hàm chứa một khối thuốc nổ. Bùi Ngọc Tấn bình
thản trước phi lý, trái ngang, nhưng rất dễ run rảy trước cái đẹp, tình yêu, tình
bạn. Thái độ cư xử của ông với cuộc đời là thái độ của một người có tầm vóc lớn,
một nhà văn lớn với trái tim nhân hậu.
Năm 2010,
mình in tập truyện ngắn “Lỏng và tuột”. Bùi Ngọc Tấn viết lời giới thiệu. Chỉ vài
trang sách, nhưng rất nhiều ưu ái. Năm 2011, hội thảo thơ Mai Văn Phấn – Đồng Đức
Bốn ở Hải Phòng. Mình ra dự. Buổi chiều hôm trước, một bạn dẫn mình tới nhà thăm
ông Tấn. Lúc này sức khỏe ông không được tốt. Cái chân đau, dường như lê không
nổi. Tháng 3 năm 2014, Bùi Ngọc Tấn vào Vũng Tàu lần cuối. Lần này có cả người
bạn chí thiết của ông đi cùng – nhà văn, nhà thơ, dịch giả Dương Tường. Một bạn
đọc yêu quý ông đã tự “tái bản” cuốn “Chuyện kể…”. Nghe đâu chỉ có 100 cuốn, không
hơn. Mình được mời đến dự buổi gặp gỡ,và được ông tặng một cuốn.
Lúc cúi xuống
ghi mấy dòng đề tặng, tay ông run. Ngẩng lên, đôi mắt ông trĩu buồn. Ông cảm động
về tấm lòng bè bạn, nhưng trong ánh mắt còn nguyên đó sự đòi hỏi phải có câu trả
lời sòng phẳng, về tác phẩm của ông, về khoảng thời gian bỗng nhiên ông mất tự
do.
Cuối năm đó,
Bùi Ngọc Tấn đi vào cõi hư không. Dường như cho đến phút cuối cùng trong cuộc đời,
ông vẫn khăng khăng đối mặt với bức tường sừng sững câm nín, chờ nghe câu trả lời.
TRẦN ĐỨC TIẾN


