Văn hóa nói lên khả năng cảm nhận và thể hiện của từng cá nhân. Khi số hóa càng được thúc đẩy sẽ là lúc bộc lộ rõ nhất năng lực văn hóa của từng chủ thể: bạn lựa chọn, bạn tạo ra, bạn chia sẻ như thế nào.
Nếu phải
thốt lên một lời nhận xét về một hiện tượng công nghệ mới trong những ngày qua
thì phải là: “Nhạc AI đang viral”. Vâng, thật sự như thế, bạn đi xe ghép tiện
chuyến, vào quán cà phê hay ngồi trong toa tàu metro... đều nghe thấy những ca
từ và giai điệu ấy vang lên từ xe hơi hay smartphone của hành khách. Nhưng, có
lẽ khá nhiều người ngồi cạnh tôi vẫn nghĩ đó nhạc do nhạc sĩ trẻ sáng tác, cánh
trẻ vẫn hát kiểu rên rỉ như thế bao năm nay rồi, có gì lạ đâu?
Quả thật,
đó là sự thay đổi rất nhanh trong đời sống giải trí nhưng người viết cho rằng
đâu chỉ có nhạc AI đang “viral” mà xu thế này đang chiếm ưu thế trong nhiều
lĩnh vực. Trong bài viết này người viết cũng không chọn việc phân tích sự bùng
nổ của trí tuệ nhân tạo mà muốn nhắc đến một xu thế khác. Văn hóa sẽ tiếp biến
ra sao trong thời đại công nghệ khi các dữ liệu dần được số hóa. Đó không phải
là sự mâu thuẫn, trái chiều mà là sự thích ứng và dung hòa thú vị để hình thành
một giá trị mới.
Chàng trai
Trần Long Phụng (TP Hồ Chí Minh) đã sáng tạo ra các mô hình đồ chơi nghệ thuật
(art toy) và tham dự các hội chợ đồ chơi nghệ thuật quốc tế như Asia
Collectibles Festival tại Thái Lan và Pop Toy Show Singapore... Sản phẩm này đã
được anh sáng tạo theo một quy trình nghiêm ngặt và công phu: “Phụng bắt đầu
mày mò học thiết kế 3D, nghiên cứu kỹ thuật in 3D, thử nghiệm chất liệu nhựa
PLA, resin, và tập tô vẽ thủ công, với mong muốn sản xuất ra art toy cho riêng
mình” (theo: Thái Phúc, Báo Thanh niên).
Điều đặc
biệt ở chỗ Trần Long Phụng không sáng tạo các món đồ như cách mà Lê Ngọc Dư
(Tây Ninh) làm "Chuông gió con cò" và có được 40 triệu lượt xem hay
Nguyễn Tuấn Anh (TP Hồ Chí Minh) làm đồ chơi giá trăm triệu đồng từ linh kiện
xe cũ; Lưu Chung Nghĩa (Hà Nội) làm đồ chơi từ vỏ lon, chai nhựa và giấy.
Anh Phụng
đã ứng dụng công nghệ để sáng tạo đồ chơi. Một quy trình có vẻ “ngược đời” bởi
từ công nghệ anh đã đưa các nhân vật trở lại với cuộc sống theo cách thức giải
trí đơn giản của truyền thống đó là đồ chơi.
Câu chuyện
của Trần Long Phụng còn gợi cho người viết nhiều suy cảm khác. Hay, bắt đầu từ
Internet với trẻ em: Theo khảo sát của UNICEF năm 2022: “82% trẻ em Việt Nam
12-13 tuổi sử dụng Internet hằng ngày, con số này ở lứa tuổi 14-15 là 93%. Còn
theo số liệu đưa ra từ cơ quan chức năng, thời gian trẻ em Việt Nam sử dụng mạng
xã hội là 5-7 giờ mỗi ngày” (theo: Nam Phương, Báo Dân trí).
Nhưng, chừng
ấy con số vẫn chỉ là cơ sở lý thuyết cho mọi kiến giải cho đến khi người viết
được đọc những lý giải đầy thuyết phục của luật sư Hoàng Hà trong bài viết
"Để bạo lực không có cơ hội phát sinh" trên Báo Thanh niên: “Trong
môi trường số hiện nay video bạo lực được dán nhãn như sản phẩm giải trí. Trẻ ở
lứa tuổi vị thành niên chưa hoàn thiện khả năng tự điều chỉnh nên dễ nhầm rằng
nổi bật đồng nghĩa với đúng đắn. Từ chỗ xem người khác đánh nhau đến chỗ dàn dựng
để tự mình có clip là một quãng rất ngắn. Điều này giúp giải thích các vụ việc ẩu
đả ngay ngoài cổng trường. Video bạo lực không chỉ phản ánh thực tại mà còn tạo
ra thực tại mới”.
Thế mới biết,
câu chuyện giải trí của người trẻ không hề đơn giản. Ngày nay, nhiều người
không chỉ thích xem các short video mà còn phải là những highlight (nêu bật/nổi
bật). Vô hình trung, những gì nổi bật ấy đã nghiễm nhiên trở thành “đồng nghĩa
với đúng đắn” như luật sư Hoàng Hà đã nói.
Sẽ có người
cho rằng quá sớm để đưa ra kết luận về sự lệch lạc trong văn hóa mà đó chỉ là
những biểu hiện lệch lạc trong lối sống của bộ phận giới trẻ. Như Caldwell
Abbott (1821-1893) từng nói: “Năng lực của mỗi người có thể gia tăng hoặc mạnh
mẽ hơn nhờ văn hóa”. Văn hóa nói lên khả năng cảm nhận và thể hiện của từng cá
nhân. Khi số hóa càng được thúc đẩy sẽ là lúc bộc lộ rõ nhất năng lực văn hóa của
từng chủ thể: bạn lựa chọn, bạn tạo ra, bạn chia sẻ như thế nào.
Những món
đồ chơi bước ra từ màn hình công nghệ có thể chỉ chiếm một góc nhỏ trong cuộc sống
ồn ào. Hẳn không ít người từng xem bộ phim "Cho điều con thích" của
Ovaltine. Chị Nguyễn Thu Hoài, một phụ huynh sau khi xem phim từng chia sẻ như
thế này: "Khi xem phim ngắn này tôi thấy mình trong đó. Bản thân từng tạo
áp lực, mong muốn con mình có thành tích học tập tốt vì suy nghĩ trẻ sẽ có một
tương lai tốt hơn. Có lẽ, tôi cũng nên nhìn nhận lại, để các bé được sống với sở
thích" (theo: Ngọc Thi, Báo điện tử vnexpress.net).
“Áp lực”
chính là từ khóa được nhắc đến nhiều nhất cả trên mạng xã hội và trong giao tiếp.
Áp lực ấy càng gia tăng khi công nghệ phát triển với sự tương tác và nhu cầu
xác lập uy tín cá nhân. Tác giả Đặng Hoàng Ngân trong bài viết "Thanh thiếu
niên thời công nghệ số: Áp lực tinh thần kiểu mới" đã có sự phân tích kĩ
lưỡng: “Với sự xuất hiện của mạng xã hội, quá trình định hình bản sắc cá nhân
thông qua bản dạng số trở nên năng động hơn. Thông qua các tài khoản mạng xã hội,
mỗi cá nhân kiểm soát được cách mình miêu tả bản thân thông qua việc chọn lọc
được những thông tin để chia sẻ như ảnh đại diện, bài đăng trạng thái, video tự
quay theo xu hướng thịnh hành, video ngắn, dẫn lại thông tin, bản phát trực tiếp,...
Sự tương
tác trở lại của người xem cung cấp một lượng lớn phản hồi về điều gì được cổ
vũ, yêu thích, chấp nhận, phản đối hoặc thờ ơ. Tiếp đó, cá nhân sẽ điều chỉnh sự
tự thể hiện bản dạng số, thường là theo xu hướng nhận được sự chấp nhận từ người
khác. Có hai kiểu tự thể hiện bản dạng số phổ biến là lấy lòng người khác
(ingratiation) và tự đề cao (self-promotion). Tự thể hiện bản dạng số theo kiểu
lấy lòng là xu hướng thể hiện hình ảnh dễ chịu, đáng yêu, hòa nhập với người
khác. Tự đề cao là làm nổi bật một số đặc điểm của riêng mình như tài năng, ngoại
hình, hiểu biết, phong cách,...” (Tạp chí Tia sáng, số 14/2024).
Từ những
trích dẫn ấy, tựu trung lại, có thể thấy rằng: để tạo ra một khoảng lặng giữa
thời công nghệ không hề dễ. Khoảng lặng đó không chỉ để sống chậm và tái tạo sức
lao động, có thêm động lực mà còn là sự xác lập giá trị văn hóa cho bản thân.
Như tác giả Đặng Hoàng Ngân phân tích trong bài viết nêu trên, đã có rất nhiều
điều được số hóa trong một bản dạng số (digital identity) của mỗi cá nhân, từ
diện mạo, hành vi tình dục, thành tích học tập, nâng cao sức khỏe tinh thần...
Đó chính là “căn cước văn hóa” trên không gian mạng, một không gian đang được cộng
hưởng bởi số hóa và những quan niệm phái sinh.
Văn hóa
trong thời đại số hóa chính là thách thức lớn nhất nhưng cũng là cơ hội hiếm
có, là động lực cần thiết để tạo nên những giá trị văn hóa mới. Liệu ta có thể
thong dong giữa tốc độ gấp gáp của những cú chạm nhẹ trên màn hình cảm ứng. Liệu
các bạn trẻ lại tìm thấy những “góc sân và khoảng trời” hồn nhiên như tên tập
thơ của thi sĩ Trần Đăng Khoa? Tất cả đều có thể, miễn rằng những phát hiện và ứng
dụng công nghệ đểu hướng đến mục đích tốt đẹp. Chẳng phải đã và sẽ đang có bao
thư viện, bảo tàng, di sản được số hóa, bao câu chuyện đẹp sẽ được AI tạo tác để
sinh động hấp dẫn hơn nhưng bạn đừng quên sự cảm nhận, tưởng tượng và rung động
của cá nhân mới tạo ra giá trị văn hóa phi vật thể mà bền vững...
THU TRANG
Nguồn: Văn Nghệ Công An


