Chân dung người nổi tiếng khi khắc họa qua thi ca cũng có những thú vị riêng, vì công chúng vừa thấy tài năng nhân vật vừa thấy tài năng tác giả. Sau trường hợp “Chân dung nhà văn” của nhà thơ Xuân Sách, nhiều tác giả khác cũng tỏ ra hào hứng với thể loại này.
CHÂN DUNG NGƯỜI NỔI TIẾNG ĐƯỢC CHẤM PHÁ BẰNG VẦN ĐIỆU
TUY HÒA
Chân dung
người nổi tiếng là một đề tài được nhiều nhà thơ yêu thích. Trong tập di cảo của
nhà thơ Lê Đạt (1929-2008) có tên gọi “Album trắng” do Nhà xuất bản Hội Nhà văn
ấn hành, cũng có khá nhiều bài thơ chân dung người nổi tiếng. Ví dụ, nhà thơ Lê
Đạt viết về nhạc sĩ Tử Phác “Người đáy mộ tâm còn luyến láy/ Đèn vàng nhấp nháy
ngã tơ quay” hoặc viết về triết gia Trần Đức Thảo “Lặng lẽ bước đường trường độc
thoại/ Nghĩa trang lành cỏ dại bình xanh”.
Dùng vần
điệu để chấm phá chân dung người nổi tiếng không hề đơn giản. Bởi lẽ, ngoài thủ
pháp đơn giản là sử dụng những tư liệu, những sự kiện liên quan đến nhân vật,
thì không dễ tạo điểm nhấn riêng biệt để công chúng mường tượng đầy đủ chân
dung người nổi tiếng. Phổ biến nhất trong dòng thơ về chân dung người nổi tiếng
là vần điệu các nhà thơ ký họa đồng nghiệp. Lý do, các tác giả vốn có sẵn tên gọi
tác phẩm của họ để lắp ghép lại thành những câu mang giá trị thẩm mỹ nhất định.
Ví dụ, trong tập “Ký họa thơ”, nhà thơ Nguyên Hùng viết về bậc tài danh Văn
Cao: “Một đêm đàn lạnh trên sông Huế/ Càng ngẫm càng yêu khuôn mặt em/ Càng
thương những người trên cửa biển/ Bạc đầu chờ mùa xuân đầu tiên/ Anh
có nghe không những bài ca sống lại/ Về bến xuân hát mãi không
thôi/ Tự lúc nào trong âm thầm gác tối/ Buồn tàn thu ám vận suốt một đời?
Nhà thơ Đặng
Nguyệt Anh có ý thức làm thơ chân dung từ lâu. Rải rác suốt hành trình sáng tạo
của chị, những chân dung của tiền nhân và những chân dung của bè bạn cứ hiện ra
nhẹ nhàng và ấm áp. Bây giờ, gom các bài thơ chân dung ấy vào một tập “Thơ chân
dung” do Nhà xuất bản Hội Nhà Văn ấn hành, bỗng nhận ra thơ chân dung cũng là kết
quả “trời đất chẳng phụ người nhân hậu” như một câu thơ của chị. Thơ chân dung
thường được viết bằng thái độ thù tạc hoặc bằng tư duy đáo để. Thái độ thù tạc
thì chủ yếu câu chữ vuốt ve để giao lưu và bông đùa. Còn tư duy đáo để, đôi khi
lại nhấn nhá vài góc khuất có ý mỉa mai và cười cợt. Nhà thơ Đặng Nguyệt Anh
không đi theo lối mòn ấy. Hay nói cách khác, nhà thơ Đặng Nguyệt Ánh có một nguồn
năng lượng yêu thương và trân trọng để tìm thấy chân dung thơ theo cách riêng
mình.
Nguyễn
Bính và Trần Dần là hai trường hợp có tài năng khác nhau và cũng nếm trải bi kịch
dương gian khác nhau. Không thể viết về Nguyễn Bính và Trần Dần bằng những lời
vu vơ giống hệt nhau. Nhà thơ Đặng Nguyệt Anh phát hiện nét độc đáo của mỗi người,
để giúp Nguyễn Bính thổ lộ: “Tương tư chưa hết một đời/ Duyên thơ thắt buộc cho
người dở dang” và khẳng định giá trị của Trần Dần: “Ông mang một tia hi vọng/ Tặng
cho người tuyệt vọng”.
Mỗi tác giả
viết thơ chân dung luôn đặt ra hai mục tiêu, viết vì nhân vật và viết cho chính
mình. Cho nên, bên cạnh việc gửi gắm sự tin yêu đến nhân vật, thì thơ chân dung
phải có được những câu thơ mang dấu ấn đích thực của tác giả. Loại thơ chân
dung gây xôn xao nhất phải nhắc đến tập “Chân dung nhà văn” xuất bản năm 1992 của
nhà thơ Xuân Sách (1932-2008). Lúc sinh thời, chứng kiến tập “Chân dung nhà
văn” được đón nhận với những ý kiến trái chiều, nhà thơ Xuân Sách đã hé lộ loại
thơ chân dung của ông đã nhen nhóm từ cuối thập niên 1960 ở tòa soạn Văn Nghệ
Quân Đội: “Cơ quan chúng tôi có tục lệ sau các cuộc họp sơ kết tổng kết thường
có mục vui cười. Lần này cũng vậy, Nguyễn Khải khởi xướng: “Tôi đề nghị anh Xuân
Sách đọc những bài thơ chân dung mới ra lò. Thời phong kiến vua uy quyền đến
thế mà vẫn để một khe hở, tha chết cho quan ngự sử khi có lời trái ý hoàng thượng,
anh Sách cũng được hưởng cái quyền miễn trảm ấy nên cứ đọc thoải mái. Xin đọc về
tôi trước”. Thực ra lúc đó tôi chưa chính thức viết chân dung Nguyễn Khải,
chỉ có mấy câu đùa tếu, Nguyễn Khải vẫn cứ đọc làm mồi. Rằng trước khi tôi
đi ra đảo Cồn Cỏ, vợ tôi lo lắng, tôi có an ủi: “Em đừng tính quẩn lo quanh, họ
chiến đấu chứ có phải anh đâu”, rồi khi tôi gặp đồng chí bí thư huyện ủy
Hòa Vang được triệu tập ra Bắc để báo cáo thành tích chiến đấu, vợ tôi lại tưởng
tôi đi B nên tôi phải nói: “Anh đi một lát về ngay. Hòa Vang chính ở ngoài này
đó em”. Chờ mọi người cười xong, Nguyễn Khải tiếp: “Tôi chỉ nhớ có vậy, vả lại
tôi vốn nhạt nên ông Xuân Sách khó viết hay, bây giờ đề nghị anh đọc bài mới,
những bài về anh em ngồi đây càng tốt”.
Sau khoảng
ba mươi năm miệt mài, nhà thơ Xuân Sách sàng lọc được 100 bài thơ để đưa vào tập
“Chân dung nhà văn”, trong đó 99 bài xưng tụng các đồng nghiệp và một bài ông tự
vẽ mặt mình: “Cô giáo làng tôi đã chết rồi/ Một đêm ra trận đất bom vùi/ Xót xa
đình Bảng người du kích/ Đau đớn Bạch đằng lũ trẻ côi/ Đường tới chiến công gân
cốt mỏi/ Lối vào lửa sởn tóc da mồi/ Mặt trời ảm đạm quê hương cũ/ Ở một cung
đường rách tả tơi”.
Khi cấp giấy
phép xuất bản tập “Chân dung nhà văn”, nhà thơ Lữ Huy Nguyên (1939-1998) với tư
cách Giám đốc Nhà xuất bản Văn Học đã viết: “Đây là những ký họa có tính đặc tả
của Xuân Sách, những chân dung vốn đã khá phổ biến trong và ngoài giới văn học
suốt vài chục năm qua. Tác giả không nêu đích danh một ai, nhưng dưới nét bút
phác thảo, những độc giả và người làm văn học vẫn có thể nhận ra từng đối tượng.
Dĩ nhiên thể loại này thường cố ý phóng to những đặc điểm và khi nhìn vào những
nét đặc tả ấy, tuy mất cân đối và đôi khi phiến diện, vẫn dễ dàng nhận ra diện
mạo, cốt cách từng nhân vật. Chất vui hóm và nhất là khả năng chơi chữ có thể
khiến người ta ngạc nhiên một cách thú vị, nhưng cũng có thể gây nên những sự
không hài lòng đây đó. Chúng tôi chỉ coi đây là nét tự trào của giới cầm bút,
cười đấy nhưng cũng tự nhận ra những xót xa hạn hẹp của chính mình, những gì
chưa vượt qua được trên các chặng đường quanh co của lịch sử và thời đại. Tự
soi mình, học hiểu mình thêm qua cách nhìn của người cùng hội cùng thuyền lắm
khi cũng hữu ích. Rất mong độc giả và các nhà văn nhận xét ra mối chân tình
trong cuộc vui của làng văn, và lượng thứ cho những khiếm khuyết”.
Dẫu tập
“Chân dung nhà văn” rất lừng lẫy, nhưng nhà thơ Xuân Sách không phải người đầu
tiên làm thơ chân dung trong văn học chữ quốc ngữ Việt Nam. Nhà thơ Thế Lữ
(1907-1989) và nhà thơ Tú Mỡ (1906-1976) trên mục “Minh niên giáng bút” của báo
Ngày Nay xuân 1940, đã cùng nhau viết thơ chân dung các đồng nghiệp. Chẳng hạn,
chân dung Nguyễn Tuân được Thế Lữ và Tú Mỡ chấm phá: “Nghe vang theo bóng một
thời/ Tên này thực biết vâng lời người trên/ Bây giờ gần gụi ả phiền/ Hỏi han
câu chuyện ngọn đèn dầu ta”.
Khi làm
thơ chân dung, mỗi nhà thơ có một góc nhìn nhân vật và một thái độ thẩm mỹ khác
nhau. Cùng bái vọng tiền bối Nguyễn Bính, nhà thơ Nguyễn Vũ Tiềm và nhà thơ Trần
Mạnh Hảo đều dùng thể loại lục bát, nhưng lại mang hai phong cách dị biệt. Nhà
thơ Nguyễn Vũ Tiềm viết: “Hai lần lỡ bước sang ngang/ Thương con bướm đậu trên
giàn mồng tơi/ Trăm hoa thân rã cành rời/ Thôi đành lấy đáy giếng thơi làm mồ/ Kìa
ai đường nắng mịt mù/ Giắt đầu nắm lá hương nhu gánh gồng/ Kìa con bướm trắng vẽ
vòng/ Và hồn trinh nữ ngồi hong tơ buồn/ Hình như phía cuối hoàng hôn/ Hao hao
anh lái vào thôn bán thuyền/ Đường xa thi khách không tiền/ Bước vô quán trọ đến
thềm lại thôi/ Sững sờ trước giậu mùng tơi/ Hỏi người, người đã mấy hồi sang
ngang”. Còn nhà thơ Trần Mạnh Hảo viết: “Trăm hoa dễ được hoa nào/ Về xem bướm
hoá thi hào vườn dâu/ Về xem cái kén mọc đầu/ Ruột gan rút hết từng câu nhân
tình/ Tài cao đẩy thấp phận mình/ Vỉa nồi niêu vẫn còn kinh hề mồi/ Thơ không
thể đổ vào nồi/ Ngắm mình trong nước giếng thơi hết hồn/ Đêm sao sáng cạn hoàng
hôn/ Bút đào huyệt giấy mà chôn mình dần/ Một đoàn bươm bướm đưa chân/ Hai hàng
lục bát khiêng phần mộ thơ”.
Trở lại với tập “Album trắng” của nhà thơ Lê Đạt. Thơ chân dung cũng được nhà thơ Lê Đạt thể hiện tối giản, độc giả phải đoán “bóng” qua “chữ”. Chẳng hạn, viết về nhà thơ Quang Dũng “Tây tiến Mai Châu còn mộng biếc/ Trọn đời nhất bận việc rong chơi”, viết về nhà thơ Hoàng Cầm “Hồn cò trắng khất tình trăng sông Đuống/ Mộng vàng cầm giải chấp cuống diêu bông”, viết về nhà thơ Hữu Loan “Mấy chữ sim đồi hoa tím mãi/ Tóc dài râu bạc đãi sông mưa” hoặc viết về nhà văn Trương Tửu “Rời bục giảng đường về ở ẩn/ Ông lang Hàng Gà cứu hận Bách Khoa”./.


