Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Phan vừa trút hơi thở cuối cùng vào chiều 25/10 tại TP.HCM, khép lại cuộc đời 86 năm đam mê bút mực với không ít thăng trầm.
Nhà văn
Hoàng Phủ Ngọc Phan không có mức độ phổ cập tên tuổi trong đại chúng, như anh
ruột là nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường (1937-2023). Lý do rất đơn giản, họ có cá
tính khác nhau. Nếu nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường thích quảng giao và xê dịch,
thì nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Phan chọn khép kín và trầm tư. Thế nhưng, mức độ tài
hoa và uyên bác, giữa hai người không hề có khoảng cách quá lớn.
Sinh ra
trong dòng tộc trí thức gốc Bích Khê (Triệu Phong, Quảng Trị) nên con đường cầm
bút của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Phan gần như một mặc định số phận. Sau thời gian
sôi nổi cùng phong trào đấu tranh học sinh ở Huế, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Phan thoát
ly gia đình để tham gia cách mạng. Ông làm báo Cờ Giải Phóng ở chiến khu Trị
Thiên rồi chuyển vào hoạt động với Thành đoàn Sài Gòn – Gia Định ở Căn cứ Trung
ương cục miền Nam.
Hành trình
thanh xuân dấn thân được chính nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Phan viết lại trong cuốn
sách “Dưới ánh hỏa châu” mà ông gọi là “hoài ký”. Đọc những mảng hồi ức về “Mệ
Sen”, “Đường lên đỉnh núi” hoặc “Hai đóa hoa quỳnh” dễ dàng nhận ra một
chàng trai Hoàng Phủ Ngọc Phan sâu sắc, gan dạ và ấm áp.
Non sông
thống nhất, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Phan có 10 năm làm việc ở Hãng phim Giải
Phóng. Ông không chỉ khẳng định đẳng cấp một cây bút viết lời bình cho phim tài
liệu, mà còn chứng minh vai trò một biên tập viên đầy bản lĩnh. Khi Hãng phim
Giải Phóng sản xuất bộ phim 8 tập “Ván bài lật ngửa” do Khôi Nguyên – Lê Hoàng
Hoa đạo diễn, dựa theo kịch bản của Trần Bạch Đằng (lấy tên cháu ngoại Nguyễn
Trương Thiên Lý làm bút danh) thì có lẽ nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Phan là người hiếm hoi dám nói thẳng về ưu khuyết của danh tác này.
Bằng sự mẫn
tiệp của mình, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Phan cho rằng, đổi tên kịch bản từ “Biển
giáo rừng gươm” thành “Ván bài lật ngửa” là rất hay, nhưng tên từng tập chưa ổn.
Tên gọi ba tập đầu “Đứa con nuôi vị giám mục”, “Quân cờ di động” và “Phát súng
trên cao nguyên” đều đắc dụng, nhưng từ tập thứ tư trở đi thì tên gọi hơi đuối.
Bởi lẽ, tên gọi “Cơn hồng thủy và bản tango số 3” nhái theo một bộ phim nước
ngoài, còn tên gọi “Trời xanh qua kẽ lá” hoặc “Cao áp và nước lũ” thì có thể đặt
cho bất kỳ bộ phim nào không thuộc loại phim tình báo.
Từ năm
1986, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Phan công tác tại Nhà xuất bản Trẻ cho đến khi nghỉ
hưu. Ngoài chuyên môn làm sách, ông định vị một tác giả trào phúng hàng đầu Việt
Nam với bút danh Hoàng Thiếu Phủ. Không giống các tác giả trào phùng cùng thời
chủ yếu dựa vào ngôn ngữ hài hước để chinh phục công chúng, tác phẩm Hoàng Thiếu
Phủ nghiêng hẳn về hướng châm biếm.
Cấu trúc
chặt chẽ và tình huống lắt léo, mỗi câu chuyện Hoàng Thiếu Phủ đưa ra không chỉ
để cười. Ông không hài hước dựa trên diễn biến thời sự, mà gạn lọc nhân tình thế
thái rút tỉa những nghịch lý đáng cười. Nét riêng biệt của Hoàng Thiếu Phủ là
tiếng cười không dừng ở sự bông đùa, tiếng cười lắng xuống nỗi chua xót, tiếng
cười đọng lại niềm day dứt. Trong sắc thái văn học trào phúng hiện đại, Hoàng Thiếu
Phủ mang đến một kiểu cười ra nước mắt.
Nhắc đến sự
nghiệp của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Phan, có một mảng ít ai đề cập là thơ tình. Ông
sáng tác không nhiều và cũng không mấy nhiệt tình công bố. Tuy nhiên, đọc thơ
Hoàng Phủ Ngọc Phan có thể hình dung rõ ràng hơn chân dung ông. Dáng vẻ khắc khổ
và lầm lũi như một ẩn sĩ của Hoàng Phủ Ngọc Phan, dễ hiểu nhầm ông khô khan và nguyên
tắc. Vậy mà, trái tim đa cảm của ông cứ bồi hồi trong thi ca.
Thơ Hoàng
Phủ Ngọc Phan ngổn ngang bóng dáng cố nhân đã mờ xa và kiên trì níu kéo ân tình
đã nhạt nhòa: “Người hỏi rằng xứ Huế bây giờ/ Còn chờ ai trong cơn bơ vơ/ Chiều
Nam Giao nhớ người Bến Ngự/ Thương ai một đời lỡ hẹn trong mơ…/ Người hỏi rằng
xứ Huế bây giờ/ Tôi biết thưa làm sao đây/ Từng phen gió thổi vào cung lạnh/ Vách
ghế thềm hoa cỏ mọc đầy”.
Mối duyên
lỡ làng thấp thoáng mùa hoa bồ công anh từng khiến Hoàng Phủ Ngọc Phan nôn nao:
“Khi tình yêu chớm nở/ Tôi hái tặng em đoá hoa này/ Tặng em một niềm vui màu trắng/
Xôn xao trên đầu ngón tay…/ Khi tình yêu rạn vỡ/ Tôi cũng tặng em đóa hoa này/ Tặng
em lời biệt ly màu trắng/ Trong hoàng hôn lạnh hơi may”. Cho nên, ông học cách
chấp nhận “Em có thấy trên dòng sông vĩnh biệt/ Buồm thời gian không dừng cánh
một lần” để tự an ủi “Chúng mình là chiếc lá/ Bị mùa thu đánh rơi/ Vào tháng
ngày buồn bã”.
Giới mộ điệu
đã gặp một nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Phan nghiêm cẩn với nghề biên kịch và đáo để
với truyện trào phúng, thì lại phát hiện một nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Phan đa đoan
mềm yếu với miền thơ kỷ niệm. Ở đó, ông đã thảng thốt “Mai em không còn lên đồi
cỏ biếc/ Sẽ thiếu một người hát trong đám đông”. Và ở đó, ông đã bâng khuâng “Tôi
với em chưa hề quen nhau/ Mỗi người một bóng một đêm thâu/ Mỗi người ôm một
cung đàn lẻ/ Đàn lạnh thì thầm những nỗi đau”.
LÊ THIẾU NHƠN



