Nhà nghiên
cứu Trịnh Bá Đĩnh cho rằng: “Con đường của phê bình bốn mươi năm qua cho thấy nó
ngày càng bị chi phối bởi sự quốc tế hóa, công nghệ hóa và kinh tế thị trường”.
HÀNH TRÌNH
BỐN MƯƠI NĂM PHÊ BÌNH VĂN HỌC VIỆT NAM
TRỊNH
BÁ ĐĨNH
Báo cáo
này của tôi xem xét một giai đoạn phê bình theo lối cấu trú- lịch sử, nghĩa là
tiếp cận nó như một văn bản trong hoạt động, vận động. Ở mỗi giai đoạn, một lối
phê bình nổi bật hơn, là “chủ âm” bên cạnh những lối phê bình khác. Tôi tạm
chia ra ba giai đoạn: 1980-1995, 1995-2010 và 15 năm trở lại đây. Tôi cố gắng mô
hình hóa mỗi giai đoạn để phân biệt
1. Giai
đoạn “phản tư”: Phê bình ý thức hệ
- Phê bình
ý thức hệ là gỉai thích, đánh giá các quan điểm triết học, chính trị, xã hội, đạo
đức, nghệ thuật của nhà văn được biểu hiện qua tác phẩm văn học.
- Đối tượng
và nội dung: Đó cơ bản là phê bình chủ thể sáng tác, tức tư tưởng nhà văn. Có
ba sự kiện tiểu biểu: 1/ Năm 1985 Hội nhà văn trao giải thưởng cho năm cuốn phê
bình: Văn học Việt Nam trên những chặng đường chống phong kiến xâm lược (công
trình tập thể), Nhà văn hiện đại của hai tác giả Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức, Nhà văn
tư tưởng và phong cách của Nguyễn Đăng Mạnh và Gương mặt còn lại: Nguyễn Thi của
Nhị Ca.. Các cuốn sách đều nghiêng về phê bình chủ thể (trừ cuốn đầu tiên). 2/
cuộc tranh luận xung quanh sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp. Các ý kiến chia làm
hai phe. Phe phê phán quy kết Nguyễn Huy Thiệp, lật đổ thần tượng, bắn súng lục
vào quá khứ. Nhóm ủng hộ ca ngợi c “thiên tính nữ” (HNH), tính nhân văn trong sáng
tác của ông. Các bài viết của Lê Ngọc Trà về mối quan hệ văn học và chính trị,
tư tưởng nghệ thuật của nhà văn, cái chủ quan trong nội dung tác phẩm. Các vấn đề
đặt ra đều thuộc bình diện hệ tư tưởng, thế giới quan của nhà văn.
- Phương
tiện phê bình: Các báo, tạp chí văn nghệ cũng tham gia tích cực như Văn nghệ quân
đội, Tạp chí Cửa Việtt. Ngay cả các báo chính trị, xã hội hàng ngày cũng có những
bài phê bình văn học đáng chú ý . Trung tâm vẫn là báo Văn nghệ với những cuộc
tranh luận lớn. Mục “Ý kiến bạn đọc” trở thành một công cụ phê bình.
- Kết quả:
Phê bình tư tưởng hệ là một phương tiện quan trọng góp phần vào sự đổi mới văn
nghệ như kích thích sáng tác mới, thay đổi cách quản lí nhà nước với văn nghệ (“Quản
lí rộng”).
2. Giai
đoạn hội nhập: Phê bình học thuật
- Phê bình
học thuật khá gần với nghiên cứu văn học, đôi khi được coi là khoa học. Phê bình
học thuật thường vận dụng các công cụ của các bộ môn khioa học xã hội như triết
học, tâm lí học, ngôn ngữ học, xã hội học để diễn giải, đánh giá các hiện tượng
văn học.
- Sang đầu
thập kỉ 90, tình hình chính trị, xã hội có thay đổi, sự hưng phấn phê phán các
phương diện tư tưởng hệ giảm nhiệt. Phê bình đi vào chiều sâu với những vấn đề
chuyên môn, Đối tượng chính là quan niệm văn bản nghệ thuật và cách thức phân tích
văn bản. Việc hội nhập với thế giới phương Tây ngày càng tích cực, dẫn đến nhiều
trường phái học thuật được giới thiệu và vận dụng vào thực tế văn học Việt Nam.
Có thể kể những xu hướng: Thi pháp học, ngôn ngữ học, phân tâm học, mĩ học tiếp
nhận, hậu hiện đại.
- Ở thời kì
này các trường đại học, viện nghiên cứu được mở ra nhiều, kéo theo sự xuất hiện
của các tạp chí chuyên ngành ngữ văn, văn hóa nghệ thuật, nhiều luận án nghiên
cứu sinh được in sách. Có thể gọi một cách tượng trưng xu hướng này là phê bình
tạp chí. Người đọc đa phần là giới chuyên môn ngành ngữ văn.
- Kết quả:
xu hướng học thuật là tăng tính chuyên môn hóa của hoạt động phê bình, giảm loại
phê bình nghiệp dư, ấn tượng chủ nghĩa.
3. Giai
đoạn hiện nay: Phê bình văn hóa.
Gọi là phê
bình văn hóa tôi muốn xác định nó ở hai đặc điểm: 1/ tính “đại chúng” của hoạt động
phê bình.; 2/ nội dung văn hóa trong bài phê bình phê bình, tức nhà phê bìn nhìn
tác phẩm văn chương rộng hơn bản thân nó.
-Trong phê
bình văn học giờ đây thấy xuất hiện các xu hướng tiếp cận tác phẩm từ khu vực “ngoài
văn học”: từ diễn ngôn quyền lực, nữ quyền luận, phê bình sinh thái, nhân học văn
chương. Các lí thuyết văn học đã có từ thế kỉ trước cũng mở rộng phạm vi đối tượng
khảo sát đến biên giới của văn hóa: Từ kí hiệu học ngữ văn đến kí hiệu học văn
hóa; từ liên văn bản đến liên văn hóa. Đối tượng của phê bình văn hóa như vậy là
văn cảnh.
- Phê bình
học thuật, hay gọi là “phê bình tạp chí” bị đẩy khỏi vùng trung tâm của đời sống
văn học, phê bình đại chúng trên internet dần chiếm chỗ. Thay cho việc đọc, diễn
giải tác phẩm, người ta quan tâm đến hoạt động ra sách, chuyện đời tư của nhà văn.
Các tài liệu đăng trên Internet tản mác, tự do, phi thể loại, không được tổ chức
như một tiểu luận bài bản. Phê bình ngày càng bị chi phối nhiều hơn bởi kinh tế
thị trường có tính quảng cáo.
- Kết quả:
Phê bình trên Internet khá dân chủ, mở cửa cho tất cả mọi người. Không chỉ các
nhà phê bình chuyên nghiệp, mà bất kỳ ai cũng có thể bày tỏ ý kiến của mình về
những gì họ đã đọc và phổ biến rất nhanh chóng, dù chất lượng lắm khi rất đang
ngờ.
KẾT LUẬN:
Con đường của phê bình bốn mươi năm qua cho thấy nó ngày càng bị chi phối bởi sự
quốc tế hóa, công nghệ hóa và kinh tế thị trường./.


