Để tránh những rắc rối có thể xảy ra, biên kịch bao giờ cũng yêu cầu tác giả văn học viết giấy ủy quyền chuyển thể. Trong đó có mục đề rõ biên kịch được quyền sử dụng nội dung tác phẩm văn học phù hợp với kịch bản.


KỊCH BẢN CHUYỂN THỂ

PHẠM NGỌC TIẾN

Là nói những kịch bản phim được chuyển thể từ các tác phẩm văn học. Việc chuyển thể này lâu nay mặc nhiên như một cách làm được áp dụng trên toàn thế giới. Nhiều tác phẩm văn học được các nhà làm phim trả tác quyền chuyển thể thành kịch bản có thể thành công hoặc thất bại nhưng tựu trung nó gần như là một trào lưu không thể thiếu trong thế giới điện ảnh và truyền hình.

Ở Việt Nam ta mới nhất là những ồn ã từ phim điện ảnh “Đất rừng phương Nam” được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của cố nhà văn Đoàn Giỏi. Chuyện sẽ không có gì nếu như phim không vấp phải luồng dư luận phản đối kịch liệt về những thay đổi nội dung trong nguyên tác văn học khiến tác phẩm điện ảnh lao đao sóng gió và doanh thu thất bát.

Thực chất việc kịch bản chuyển thể từ tác phẩm văn học là như thế nào? Nó có những nguyên tắc gì? Phải làm sao để tránh sự cố như phim “Đất rừng phương Nam"? Xin thưa rất khó trả lời, dù rằng người viết bài này vốn là một biên kịch từng chuyển thể không ít kịch bản phim truyện dựa vào các nguyên tác văn học. Thôi thì đành lấy chuyện chuyển thể của cá nhân mình ra kể ngõ hầu để bạn đọc tự tìm ra câu trả lời.

Vốn mê phim ảnh từ nhỏ nên hầu như tôi xem không bỏ phim nào ở rạp. Phim ti vi cũng vậy luôn xem mê mẩn. Mê phim nhưng quả thực tôi không bao giờ có ý định học đòi trở thành biên kịch cho đến năm 1994 tôi đọc được cuốn tiểu thuyết “Kẻ ám sát cánh đồng” của nhà văn Nguyễn Quang Thiều. Là dân viết văn xuôi nhưng khi đọc tiểu thuyết này, câu chuyện hiện lên rành rẽ bằng hình ảnh sống động như thể nó đã là một bộ phim trọn vẹn.

Sau này thì tôi hiểu bản thân tiểu thuyết gần như đã là một kịch bản hoàn chỉnh. Máu biên kịch nổi lên dù lúc ấy tôi chưa có bất cứ một kỹ năng kịch bản nào. Tôi bèn dành thời gian tìm hiểu kỹ thuật viết kịch bản từ những cuốn sách dạy viết, thêm nữa mua hẳn một đầu video và một chồng băng phim truyện nước ngoài về xem để học hỏi kinh nghiệm. Khi đã đủ tự tin tôi bèn gặp nhà văn Nguyễn Quang Thiều đề nghị được chuyển thể. Để có đầu ra tôi gặp nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ là trưởng phòng phim của Ban Văn nghệ VTV gửi gắm.

Mọi việc hanh thông, tôi viết rất nhanh chỉ một tuần được 4 tập phim đem nộp nhưng cũng phải 3 năm sau khi phòng phim của Nguyễn Thị Thu Huệ sáp nhập vào Hãng phim Truyền hình VN (VFC) thì kịch bản mới được đưa vào sản xuất. Lúc này tôi cũng đã chuyển công tác về làm biên tập ở hãng phim. Sở dĩ viết nhanh vì như đã nói cuốn tiểu thuyết như một kịch bản hoàn chỉnh, thậm chí tôi giữ nguyên nội dung không cần thêm bớt sáng tạo gì. Phải nói tôi đã quá may mắn, có điều này là vì nhà văn Nguyễn Quang Thiều quá giỏi, ngôn ngữ của ông đầy hình ảnh và câu chuyện khá chặt chẽ, kịch tính, đầu cuối rõ ràng. Phim “Chuyện làng Nhô” ra đời như thế và đó chính là kịch bản đầu tay của tôi đưa tôi vào con đường làm biên kịch chuyên nghiệp.

Khi phim phát sóng dư luận nổi như sóng cồn khen ngợi tất nhiên có cả những chỉ trích. Bản thân tôi và những người có trách nhiệm làm phim gặp vô khối rắc rối, họp hành, giải trình lên bờ xuống ruộng phim mới được phát sóng tiếp tục. Cá biệt một người chức vụ to vật có liên quan đến việc xử lý phim ngày ấy khi đã về hưu bảo, ngày đó anh bảo vệ em ghê lắm đấy, mày là thằng được nhưng quá nguy hiểm em ạ, khe khe. Ý văn học là suýt bị tỏi.

Gần 30 năm qua ngoài những lời khen, tôi phải chịu không biết bao nhiêu sự phê phán thậm chí là chửi rủa, dọa dẫm kinh hồn táng đởm từ một số người trong và ngoài nước. Mỗi khi trong nước có vụ việc gì tỷ như câu chuyện ở Đồng Tâm, tên tôi và nhóm tác giả lại bị réo chửi như hát hay. Có không ít người phê phán vống lên phong tặng tôi là “đồ tể” là “cộng đỏ” là “bút máu”. Trời ạ, lúc đấy mới học nghề ham viết chỉ thấy đó là một kịch bản hợp với tạng của tôi và dễ chuyển từ cuốn tiểu thuyết nên tôi làm, vậy thôi. Có câu “sinh nghệ tử nghệ’’ khen thì hưởng, chửi phải gánh chứ biết làm sao.

Nhưng có một sự thật này, nhờ có “Chuyện làng Nhô” mà vùng cấm bị xóa trên phim ảnh, truyền hình thế nên những vấn đề về đất đai về khiếu kiện về đấu tranh chống quyền lực tha hóa, chống tham nhũng không còn bị cấm đoán, kiểm duyệt chặt chẽ như trước. Tôi dám nói chắc như vậy vì những phim chính luận sau này tôi làm đều không gặp bất cứ cản trở lớn nào. Trong đó có những phim động chạm tới những quyền lực trước đấy là bất khả xâm phạm như trong phim “Đàn trời’’ và mới nhất là “Sinh tử” do tôi chấp bút.

Đầu xuôi đuôi lọt, khi viết xong “Chuyện làng Nhô” tôi tham gia nhóm viết kịch bản “Cảnh sát hình sự” 40 tập do nhà văn Nguyễn Quang Lập khởi xướng. Nhóm gồm toàn nhà văn cự phách, Trung Trung Đỉnh, Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Thành Phong. Thủ lĩnh Nguyễn Quang Lập vừa tổ chức vừa huấn luyện kỹ năng viết kịch bản cho cả nhóm. Dù không phải là kịch bản chuyển thể nhưng phim “Cảnh sát hình sự” được xây dựng từ vốn liếng “hình sự” của cả nhóm, trong đó tôi ngờ rằng tất cả mọi người tham gia đều có thuổng ở đâu đó các chi tiết trong các câu chuyện hình sự ở ngoài đời hay trên báo chí và cả trên đài phát thanh.

May thay không có chuyện ì xèo đạo bản quyền nào xảy ra sau đó với phim. Nói dại nếu mà có thì đúng là động trời ế mẽ cả đám đang dưng lại dây vào phim phọt. Không bàn hay dở nhưng phần đầu này của dòng phim "Cảnh sát hình sự" cùng với "Chuyện làng Nhô" có công lớn xóa vùng cấm nhờ thế mà mọi chuyện trong thiên hạ kể cả nặng nề như hiếp dâm, giết người, oan trái, cường quyền tham nhũng, bất công xã hội kể cả cải cách ruộng đất mới được công khai thoải mái trên màn hình không bị cấm đoán kiểm duyệt như trước. Qua chuyện này mới thấy kiếp nạn của cánh nhà văn khốn khổ khốn nạn thế nào. Hai trong nhóm nhà văn viết "Cảnh sát hình sự" từng có thời gian dính vòng lao lý. Đành thôi vì đã trót rước nghiệp vào thân.

Quãng thời gian làm biên tập ở Hãng phim THVN tôi và đồng nghiệp chấp bút không ít kịch bản từ những cuốn tiểu thuyết hay truyện ngắn của một số nhà văn nổi tiếng. Có thể kể đến các truyện ngắn “Khắc dấu mạn thuyền’, “Ba lẻ một” của nhà văn Bảo Ninh, tiểu thuyết “Mảnh đất lắm người nhiều ma” của nhà văn Nguyễn Khắc Trường, tiểu thuyết “Ma làng” của nhà văn Trịnh Thanh Phong, tiểu thuyết “Ngõ lỗ thủng”, “Tiễn biệt những ngày buồn” của nhà văn Trung Trung Đỉnh, tiểu thuyết “Đàn trời” của nhà văn Cao Duy Sơn…

Việc chuyển thể này không tuân theo một quy chuẩn hay định ước nào chỉ là biên kịch đọc thấy nó hay, có chất liệu phim ảnh thì gặp gỡ tác giả văn học đàm phán xin nhượng tác quyền để chuyển thể. Cũng không có quy định nào phải đảm bảo tuyệt đối trung thành với nội dung hay cốt truyện và kể cả nhuận bút chuyển thể cũng vậy, tất cả chỉ là thương lượng hai bên. Nhà văn với nhau cũng dễ thông cảm nên việc này hầu như không có vấn đề gì.

Tất nhiên để tránh những rắc rối có thể xảy ra, biên kịch bao giờ cũng yêu cầu tác giả văn học viết giấy ủy quyền chuyển thể. Trong đó có mục đề rõ biên kịch được quyền sử dụng nội dung tác phẩm văn học phù hợp với kịch bản. Nghĩa là khi chuyển thể có thể du di biến đổi một số nội dung. Tất nhiên tác phẩm văn học có hay có hợp thì biên kịch mới chuyển thể nên chả ai dại gì mà thay đổi câu chuyện hay nhân vật làm gì. Thay đổi nhiều thì tự mình nghĩ ra cho xong cần gì phải dựa vào tác phẩm văn học nữa. Nhưng cũng phải nói tiểu thuyết, truyện ngắn (văn học) và kịch bản (điện ảnh, truyền hình) là những loại hình nghệ thuật khác nhau nên câu chuyện hay nhân vật cũng khác nhau trong chừng mực nào đó không thể y chang được.

Việc thay đổi nội dung hay nhân vật là điều rất khó tránh và cũng phức tạp. Khi chuyển thể tiểu thuyết “Mảnh đất lắm người nhiều ma” thành kịch bản “Đất và Người” bối cảnh văn học là những năm thiếu thốn, đói nghèo của thập niên 80, nhân vật Chu Văn Quềnh xuất hiện ít trang và bị chết no sau một bữa ăn ngon, tôi và đồng biên kịch, nhà văn Khuất Quang Thụy bàn với nhau chuyển sang giai đoạn thập niên 90 kinh tế đã khá lên và cho nhân vật Chu Văn Quềnh sống trọn vẹn đến cuối phim thậm chí còn lấy vợ.

Sở dĩ phải làm thế phim mới có đủ đất diễn và nó không quá u ám, ảm đạm. Sự mạnh dạn có phần liều lĩnh này đã có được một Chu Văn Quềnh do nghệ sĩ Hán Văn Tình thủ vai gây hoạt náo và thành công cho phim. Nhưng tôi biết tác giả văn học nhà văn Nguyễn Khắc Trường không mấy thỏa mãn. Anh im lặng có lẽ là vì không chấp và nhường nhịn biên kịch đàn em mà thôi.

Một trường hợp khác, tôi quyết định cùng biên kịch Đặng Diệu Hương nhập hai tiểu thuyết “Tiễn biệt những ngày buồn” và “Ngõ lỗ thủng” của nhà văn Trung Trung Đỉnh thành kịch bản “Ngõ lỗ thủng”. Sở dĩ có chuyện “nhập thành một” này là vì cả hai cuốn tiểu thuyết đều ở cùng thời kỳ bao cấp. Nhập vào cho dày câu chuyện và đủ thời lượng dự kiến. Tất nhiên phải xin phép tác giả văn học nhưng tôi biết nhà văn Trung Trung Đỉnh không mấy hài lòng nhưng vì tình thân anh bỏ qua cho.

Đấy cái sự thay đổi nội dung nó khổ như thế đấy. Nếu không có sự thông cảm thì thật khó tha thứ cho nhau và sinh ra lắm chuyện. Tôi biết rõ nhà văn Trung Trung Đỉnh người mà tôi coi như anh em ruột thịt rất khó chịu về cái chuyện nhập tiểu thuyết đó, cũng không ít lần khi rượu tới tầm anh càu nhàu không bổ thẳng vào mặt tôi nhưng bóng gió xa gần. Mới đây chỉ cách vài tháng tức là sau ngót nghét 20 năm phim ra đời, tự nhiên anh vỗ vai tôi, này Tiến, anh mới xem hết phim “Ngõ lỗ thủng” mày làm hay đấy em ạ, xem thú ra phết. Tôi cười vì giờ đây anh có chửi nữa cũng bằng thừa nhưng tôi biết anh khen thật và mãi tận giờ anh mới chịu xem phim.

Không thiếu trường hợp như thế, nhân vật văn học chết thì bắt sống dài sống thọ. Có trường hợp nhân vật sống khỏe thì biên kịch bắt phải chết. Phim “Đất và Người” ngoài nhân vật Chu Văn Quềnh chết no ngay đầu truyện phải sống đến hết phim do ý biên kịch còn nhân vật bà Son vợ ông Trịnh Hàm trong tiểu thuyết ở cuối truyện tự tử.

Biên kịch xây dựng đúng như thế nhưng lúc duyệt phim có lãnh đạo không chấp nhận vì như thế phim quá u ám, nặng nề. Thế là đoàn phim lại phải quay thêm cảnh bà Son có mặt ở đám cưới con gái đầu, cuối mỗi tập phim như để khẳng định bà không chết. Nghĩa là bà tự tử giả.

Rất nhiều lý do để phải thay đổi nhân vật và nội dung phim. Đấy là còn chưa kể đến chuyện bối cảnh phim cũng cười ra nước mắt. Trong truyện ngắn “Khắc dấu mạn thuyền” của nhà văn Bảo Ninh được chuyển thể thành kịch bản “Ký ức một thời” cốt lõi câu chuyện là cái toa tàu điện khiến anh lính bị lạc mất vị trí nhà cô gái. Trong truyện là thế nhưng lúc làm đào đâu ra tàu điện thế là phải biến đổi thành thứ khác thay cho tàu điện. Tất nhiên không có tàu điện thì câu chuyện giảm hẳn độ hay rồi nhưng biết làm cách nào. Đấy, tác giả văn học mà chi li phản ứng thì cũng thành chuyện chẳng phải nhỏ.

Kể chuyện chuyển thể thì còn vô hồi kỳ trận, tôi chỉ sơ sơ như vậy để thấy việc trung thành với tác phẩm văn học tuyệt đối là không thể, hay nói nhẹ nhàng hơn là rất khó khăn. Và nữa trong vai trò biên kịch tôi đã chuyển thể rất nhiều kịch bản từ văn học cho dù chưa bao giờ xảy chuyện gì lớn giữa biên kịch và tác giả văn học nhưng tôi dám quả quyết rằng không một tác giả nào cảm thấy thỏa mãn hay hài lòng toàn bộ về đứa con văn học của mình bị biến đổi đi ít hoặc nhiều khi thành kịch bản. Lý do đơn giản thôi công mang nặng đẻ đau ra hình hài con lại bị đám biên kịch nó nhào nặn thành khác đi, sống dở chết dở thì họa có là thánh thần cũng xót. Thật!