NHỮNG ÁNG THƠ VỀ NHỮNG NGƯỜI BẤT TỬ
ĐẶNG HUY GIANG
“Núi đôi” và “Quê hương” là tên hai
bài thơ làm nên tên tuổi và thương hiệu trong thơ của Vũ Cao và Giang Nam. Một
nhà thơ thời chống Pháp và một nhà thơ thời chống Mỹ. Tiếp tục cái ý “Nhưng
không chết người trai khói lửa/ Mà chết người gái nhỏ hậu phương” mà Hữu Loan
là người mở đường trong “Màu tím hoa sim”, Vũ Cao viết những vần thơ trong nỗi
tự hào đầy nghẹn ngào về một nữ du kích đã hy sinh oanh liệt: “Ai viết tên em
là liệt sĩ/ Bên những hàng bia trắng giữa đồng”. Và chỉ “nhân vật em” khi mất
đi rồi, “nhân vật anh” mới nhận ra: “Em sẽ là hoa trên đỉnh núi/ Bốn mùa thơm
mãi cánh hoa thơm”.
“Quê hương” cũng vậy. Khi hay tin:
“Giặc giết em rồi quăng mất xác/ Chỉ vì em là du kích em ơi” thì Giang Nam mới
khẳng định một cách xác tín và thấm thía: “Nay yêu quê hương vì trong từng nắm
đất/ Có một phần xương thịt của em tôi”.
Còn Lê Anh Xuân, trước khi ngã xuống,
trở thành nhà thơ liệt sĩ, đã kịp để lại cho đời sau một bài thơ thật ấn tượng
“Dáng đứng Việt Nam”. Bài thơ xây dựng hình tượng thật độc đáo bằng “Và anh chết
trong khi đang đừng bắn”, rồi để lại dư âm vang vọng đến bây giờ: “Anh chẳng để
lại gì cho riêng anh trước lúc lên đường/ Chỉ để lại cái dáng đứng Việt Nam tạc
vào thế kỷ”, hướng tới một ngày: “Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân”.
Trong những vần thơ viết về những
con người bất tử trong kháng chiến chống Mỹ, không thể không nhắc đến “Phan Thiết
có anh tôi” và “Đò xuôi Thạch Hãn”, hai tứ thơ độc đáo của Hữu Thỉnh và Lê Bá
Dương.
“Phan Thiết có anh tôi” là bài thơ
viết trực tiếp về người anh ruột của nhà thơ đã nằm lại ở chiến trường Phan Thiết
trước 1975. Và người ấy đã thực sự hy sinh đến tận cùng, thực sự hóa thân trong
lòng đất theo nghĩa đen, đến mức cả những mảnh xương cốt cuối cùng cũng mất
tích. Chính vì thế mà ngay ở khổ thơ đầu của “Phan Thiết có anh tôi”, với xúc cảm
lớn, Hữu Thỉnh đã viết những câu thơ thật thảng thốt, thật đau đớn, gắn ý nghĩa
của cái chết của con người với trời và đất: “Anh không giữ cho mình dù chỉ là
ngọn cỏ/ Đồi thì rộng anh không vuông đất nhỏ/ Đất và trời Phan Thiết có anh
tôi”.
Một lần nữa, cỏ trở thành biểu tượng
của sự bất diệt trong thơ Hữu Thỉnh: “Không nằm trong nghĩa trang/ Anh ở lại với
đồi anh xanh cỏ/ Cỏ ở đây thành hương khói của nhà mình”.
“Đò xuôi Thạch Hãn” là bài thơ nhớ
về sự hy sinh của đồng đội mùa hè đỏ lửa 1972 trên chiến trường Quảng Trị. Sông
Thạch Hãn một thuở là nơi nằm lại của bao anh hùng liệt sĩ và sự nằm lại này
nhiều đến mức, tác giả phải nhắc bạn bè khi thăm lại chiến trường xưa: “Đò xuôi
Thạch Hãn xin chèo nhẹ/ Đáy sông còn đó bạn tôi nằm”. Bài thơ như xuất thất ở
hai câu cuối và “ý tại ngôn ngoại” cũng nằm trong trong hai câu thơ này: “Có tuổi
hai mươi thành sông nước/ Vỗ yên bờ bãi mãi nghìn năm”.
Trong vệt thơ viết về đồng đội đã
hy sinh ở chiến trường Quảng Trị có “Quảng Trị” của Trần Trọng Giá. Nhiều năm
sau, Trần Trọng Giá vẫn như hòa vào Quảng Trị, nhớ về Quảng Trị với tinh thần của
một người lính trận, đầy trải nghiệm trận mạc: “Ai qua miền đất ấy/ Xin cúi đầu,
lặng nghe/ Trong cát là xương trắng/ Trong gió còn lời thề”.
Cũng với tinh thần ấy, Trần Trọng
Giá viết bài “Trở lại Vị Xuyên”. Bài thơ này là sự sẻ chia đau đớn của người
lính - người bạn chiến đấu cùng một chiến hào, cùng một cảnh ngộ, cùng một tâm
trạng, tâm thế: “Đêm đêm thức với trăng sao/ Dòng Lô dội sóng nghẹn ngào xót xa/
Hòa cùng xương máu ông cha/ Trường tồn biên ải như là ngàn xưa/ Gọi đồng đội chẳng
lời thưa/ Giữa đồng Nà Cáy gió mưa chất chồng/ Chung tay vun ngọn lửa hồng/ Cho
bao đồng đội ấm lòng đêm đêm.
Sau chót, không thể không nhắc đến
“Bài thơ về hạnh phúc” của Dương Hương Ly viết trực tiếp về người vợ liệt sĩ của
mình - bạn viết - bạn chiến đấu của mình: Nhà văn Dương Thị Xuân Quý. Một cảm
xúc thương tiếc mãnh liệt đã trào dâng hòa lẫn với niềm tin tất thắng gửi vào
tương lai: “Em ra đi chẳng để lại gì/ Ngoài ánh mắt cười lấp lánh sau hàng mi/ Và
anh biết khi bất thần trúng đạn/ Em đã ra đi với mắt cười thanh thản/ Bởi được
góp mình làm ánh sáng ban mai/ Bởi biết mình có mặt ở tương lai”.
Kèm theo là một lời hứa sắt son như dao chém đá: “Anh sẽ sống đẹp những ngày em
chưa kịp sống/ Sẽ yêu trọn những gì em chưa kịp yêu/ Em trong anh là mùa xuân
náo động/ Từ phút này càng rực rỡ bao nhiêu”.
Thơ viết về những con người bất tử còn nhiều. Những bài thơ trên chỉ là những lát cắt, những điểm nhấn tiêu biểu. Và không chỉ có trong thơ ca Việt Nam, cách nay rất nhiều năm, ở mảng đề tài này, Vư-xốt-xki nhà thơ nổi tiếng của nước Nga từng viết bài thơ “Về những người còn sống và những người đã khuất” với những câu thơ mang tính khát quát rất cao về giá trị của sự hy sinh lớn lao của người lính trong cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại của nhân dân và hồng quân Liên Xô, mà sự ra đi của họ chính là để: “Ngã xuống thành đất đai/ Ngã xuống thành Tổ quốc”.