Nhà thơ Phạm Hầu từng dồn sức theo đuổi hội họa, nhưng sau khi từ giã Trường Mỹ thuật Đông Dương thì ông quay lại với thi ca. Những vần điệu cuối đời, nhà thơ Phạm Hầu khao khát: “Tôi theo tư tưởng vô cùng tận/ Chỉ gặp vô cùng nỗi quạnh hiu/ Sáng sớm: rạng đông, chiều: chạng vạng/ Những giờ mới lạ có bao nhiêu?".
Nhà nghiên cứu Tống Phước Quang vừa công bố tư liệu đầy đủ về sinh viên 18 khóa của Trường Mỹ thuật Đông Dương từ năm 1925 đến năm 1945. Tổng cộng, 149 sinh viên trúng tuyển, chỉ có 128 sinh viên tốt nghiệp. Đáng chú ý, trong số 21 sinh viên ngưng học giữa chừng, có hai nhân vật về sau nổi danh lĩnh vực văn chương là nhà văn Nhất Linh (Nguyễn Tường Tam 1906-1963) và nhà thơ Phạm Hầu (1920-1944).
Nếu nhà
văn Nhất Linh học khóa 1 (1925-1930) cùng các tên tuổi Nguyễn Phan Chánh, Lê
Văn Đệ, Lê Phổ, Mai Trung Thứ… thì nhà thơ Phạm hầu học khóa 13 (1939-1944)
cùng các tên tuổi Phạm Văn Đôn, Nguyễn Thị Kim, Huỳnh Văn Thuận, Nguyễn Sỹ Ngọc…
Nhà văn Nhất
Linh rời bỏ Trường Mỹ thuật Đông Dương để sang Pháp du học từ năm 1927, là một
sự chọn lựa chủ động, còn nhà thơ Phạm Hầu dang dở giấc mơ hội họa vì bị bệnh động
kinh từ năm 1942.
Nếu nhà
văn Nhất Linh có sự nghiệp lừng lẫy gắn bó Tự Lực Văn Đoàn, thì nhà thơ Phạm Hầu
có sức phổ cập công chúng khiêm tốn hơn. Nhà thơ Phạm Hầu có mặt trong “Thi
nhân Việt Nam 1932-1941” của Hoài Thanh – Hoài Chân với hai bài thơ “Chiều buồn”
và “Vọng hải đài”. Sức lan tỏa “Thi nhân Việt Nam 1932-1941” giúp độc giả nhớ đến
Phạm Hầu qua hai câu thơ “Đưa tay ta vẫy ngoài vô tận/ Chẳng biết xa lòng có những
ai”.
Năm 1968,
bộ sách “Việt Nam thi nhân tiền chiến” của Nguyễn Tấn Long – Nguyễn Hữu Trọng
xuất bản tại Sài Gòn, đã hé lộ nhà thơ Phạm Hầu qua đời ngày 3/1/1944 trên chuyến
xe lửa từ Hà Nội trở về quê nhà Quảng Nam. Giữa đoạn đường Đồng Hới và Huế,
“ông vĩnh biệt cõi đời không một lời trối trăn, vì người tải bệnh tuy cùng đi
chung một chuyến tàu, nhưng phải mua vé ở hạng khác. Cái chết của Phạm Hầu cũng
lặng lẽ như cuộc đời của thi nhân. Kịp khi phát giác, người soát vé bắt buộc
người thân đem xác ông xuống ga Truồi. Người nhà thuê thuyền đưa ông về Huế an
táng sau một ngôi chùa cổ ở vùng Nam Giao, trên một trái đồi nhỏ”.
Nhà thơ Phạm
Hầu sinh ra trong một gia tộc danh giá, với người cha là Thượng thư Phạm Liệu
(1873-1937). Thế nhưng, nhà thơ Phạm Hầu bất hạnh đoản mệnh khi mới 24 tuổi.
Khi từ miền
Trung ra học Trường Mỹ thuật Đông Dương, nhà thơ Phạm Hầu mang theo nhiệt huyết
sáng tạo: “Người ta tưởng rằng bây giờ không có một bài thơ nào hay hơn thơ Đường
cả, hay những bức tranh đẹp hơn những bức tranh ở Londers. Người ta quên rằng
chim hạc đã nhường chỗ cho phi cơ. Tôi trách những con mắt cứ quay lại ngắm
nghía những cảnh cũ, mà không hề tin tưởng ở tương lai. Đừng lầm nghệ thuật với
khoa khảo cổ! Kính trọng kẻ đi trước đã mở đường cho ta, nhưng không phải đến
cái bước cuối cùng của họ, ta không bước thêm bước nào nữa cả”.
Nhà thơ Phạm
Hầu từng dồn sức theo đuổi hội họa, nhưng sau khi từ giã Trường Mỹ thuật Đông
Dương thì ông quay lại với thi ca. Những vần điệu cuối đời, nhà thơ Phạm Hầu
khao khát: “Tôi theo tư tưởng vô cùng tận/ Chỉ gặp vô cùng nỗi quạnh hiu/ Sáng
sớm: rạng đông, chiều: chạng vạng/ Những giờ mới lạ có bao nhiêu?
Chống chọi
sự đau yếu dày vò, nhà thơ Phạm Hầu hoang mang “Tuổi tôi- chiếc lá, ai sinh trước/
Hiu hắt đôi bên lúc đọ màu”, nhưng ông vẫn có bài thơ “Mãi dâng trọn hồn vui”
mong mỏi cống hiến: “Nếu tôi đau mà người được tin yêu/ Trang sách nhỏ nâng niu
hồn xứ lạ”.
LTN