Cuốn nhật ký ghi lại những năm tháng ở chiến trường của nhà báo Lệ Thu, giúp công chúng hình dung một giai đoạn lịch sử qua góc nhìn một nhân chứng chân thành.


Cuốn nhật ký của nhà báo Lệ Thu được viết từ ngày 10/8/1973 đến ngày 1/5/1975. Không gian cuốn nhật ký dù chỉ giới hạn trong hai năm cuối cùng của cuộc kháng chiến chống Mỹ ở chiến trường Nam Trung bộ, nhưng chất chứa tâm tư của một thế hệ cầm bút can đảm và nhạy cảm.

Nhà báo Lệ Thu có họ tên đầy đủ Trần Lệ Thu, sinh năm 1940 tại Tuy Phước, Bình Định. Năm 1955, cô gái Trần Lệ Thu tập kết ra Bắc và học tập ở Trường Học sinh Miền Nam. Tốt nghiệp khoa Văn của Trường Đại học tổng hợp Hà Nội năm 1964, nhà báo Trần Lệ Thu về công tác tại Đài Tiếng nói Việt Nam. Sau khi đất nước thống nhất, nhà báo Trần Lệ Thu chuyển sang công tác văn nghệ. Bà từng đảm nhiệm cương vị Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật Bình Định và làm đại biểu Quốc hội khóa 1992-1997.

Nhà báo Lệ Thu thời thanh xuân ở Hà Nội.


Cuốn nhật ký của nhà báo Trần Lệ Thu ra đời trong hoàn cảnh nào? Đó là khi nhà báo Lệ Thu đang phụ trách chương trình “Người phụ nữ mới” của Đài Tiếng nói Việt Nam thì được đưa vào danh sách “đi B”. Nhận nhiệm vụ xây dựng Đài phát thanh giải phóng Khu 5, nhà báo Lệ Thu “cũng chẳng quan tâm chức vụ gì, chỉ thấy vui mừng vì sắp được về gặp Má và các em sau gần 20 năm cách xa biền biệt. Đã biết bao lần mình mong mỏi được về thăm quê”.

Cuốn nhật ký được viết khá tỉ mỉ, nhà báo Trần Lệ Thu vốn không định công bố. Bà đã cất giữ âm thầm suốt 40 năm. Cho đến năm 2015, nhà báo Trần Lệ Thu mới đồng ý cho Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân ấn hành với tên gọi “Nhật ký nữ nhà báo chiến trường”. Năm 2025, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn lại tái bản “Nhật ký nữ nhà báo chiến trường” để phục vụ bạn đọc rộng rãi hơn.

“Nhật ký nữ nhà báo chiến trường” gồm những nội dung cốt yếu “Sống ở Trường Sơn”, “Xuống đồng bằng”, “Với quê hương Bình Định”, “Sừng sững Núi Bà”, “Chiến dịch hè thu 1974” và “Chiến dịch mùa xuân 1975”. Cuốn nhật ký khép lại với câu chuyện trớ trêu của nhà báo Lệ Thu chung quanh chuyến bay Đà Nẵng – Hà Nội vào ngày 1/5/1975: “Khi hạ cánh xuống sân bay Gia Lâm, nhân viên sân bay phát cho tôi 2 tờ giấy với chi chít các mục ghi “hàng hóa mang theo”, bảo tôi phải khai đầy đủ.

Tôi bảo là tôi chỉ có một cái ba lô nhỏ này thôi, trong đó không có “hàng hóa” gì cả, nhưng vị ấy nhất định không nghe, dù thấy tôi còn mang dép cao su, đội mũ tai bèo và chỉ có một chiếc ba lô nhỏ. Anh ta nằng nặc bắt tôi phải mở ba lo ra để kiểm tra.

Tôi cay đắng và ngượng ngùng mở chiếc ba lô ra và xốc tung lên cho người ta xem. Trong đó chỉ có hai bộ quần áo cũ và một quả bóng nhựa làm quà cho con trai nhỏ sau gần hai năm trời mẹ con cách xa biền biệt, Anh nhân viên Hải quan nói: “Xin lỗi chị, bây giờ ở miền Nam ra cũng coi như đi nước ngoài về”. Tôi hiểu “đi nước ngoài về” là mang theo hàng hóa mua được của nước ngoài về dùng hoặc bán lại kiếm lời”.

Cuốn nhật ký của nhà báo Lệ Thu có nhiều chi tiết rung động, vì ngoài sự quan sát sở trường thì bà còn có sự tinh tế một nhà thơ. Những trải nghiệm từ chiến tranh đến hòa bình, được bà viết thành bài thơ “Điềm đạm Việt Nam” thật ân cần: “Biển như mẹ một đời ru hát mãi/ Đất bồng em đón lấy giọt mưa đằm/ Nhánh ổi la đà, cành tre mềm mại/ Tiếng võng trưa hè kẽo kẹt đến ngàn năm/ Câu ca dao tưởng chừng mong manh/ Tà áo dài bay trong trang sử/ Bao cuộc chia ly, bao mùa đoàn tụ/ Đôi mắt dịu dàng - đôi mắt ngời đen/ Hơi ngượng ngùng trước một lời khen/ Thoáng ngơ ngác trước điều phản trắc/ Thuộc lịch sử cha ông để tin yêu và đánh giặc/ Nhớ rõ người giúp mình để trả nghĩa đền ơn/ Qua bao nhiêu ngày bão ngày giông/ Ngày cơ cực và ngày nghiệt ngã/ Bao năm tháng nhọc nhằn vất vả/ Vẫn nụ cười đằm thắm trên môi/ Dẫu dòng sông bên lở bên bồi/ Nước vẫn chảy giữa đôi bờ che chở/ Sau đám mây đen là mặt trời rực rỡ/ Ta hiểu bạn, hiểu thù, ta hiểu lòng ta/ Đau tột cùng không thốt tiếng rên la/ Trước hạnh phúc bỗng thấy lòng bối rối/ Xót cô Kiều tấm thân chìm nổi/ Thương đất nước mình phải chịu lắm phong ba”.

"Nhật ký nữ nhà báo chiến trường"


Bên cạnh “Nhật ký nữ nhà báo chiến trường”, nhà báo Lệ Thu hơn một lần dùng thi ca để nhắc nhở sứ mệnh người cầm bút: “Đừng viết về niềm vui khi lòng ta thực sự buồn/ đừng viết về nỗi buồn khi ta quá cách xa những cuộc đời bất hạnh/ những con sóng đi tìm bầu bạn/ những trái tim chân thật đợi chờ/ Phải biết làm người trước lúc làm thơ/ Phải biết nhận về mình chát chua cay đắng để vị ngọt cuộc đời còn đọng ở câu thơ/ Và khi... chiều vãn nắng/ bóng tối mình không đổ xuống những chồi xanh.../ Có triệu triệu con người vĩ đại vô danh/ Hạt cát thông minh không tách riêng mình để tự xưng sa mạc/ Không nhất thiết uống những gì thiên hạ khát/ Phải biết sợ thời gian, biết sợ chính mình!

Cuốn nhật ký của nhà báo- nhà thơ Lệ Thu là một tư liệu quý giá cho những ai muốn tìm hiểu về kỹ năng sống và viết của phóng viên Việt Nam trong giai đoạn chiến tranh. Đặc biệt, “Nhật ký nữ nhà báo chiến trường” còn gợi mở những băn khoăn cho từng số phận: “Sự vui buồn đến với người ta thật đột ngột, đến mức có khi không hiểu buồn vui vì sao nữa. Dẫu sao ta cũng hiểu rằng, mình chẳng là cái gì trong cuộc đời này. Tại ta tham vọng quá nhiều, đánh giá mình quá cao và quá tinh vào nghĩa tình của cuộc sống chăng?”.