Làm thơ với
trái tim, với chất sống, không đủ. Phải có văn hóa nữa. Quang năng không làm hại
gì đến các trang thơ, và dù trang thơ viết về bóng đêm cũng nên viết nó dưới
nguồn điện sáng.
BƯỚC ĐẦU CỦA TÔI
CHẾ
LAN VIÊN
Anh đã học
viết văn như thế nào?
Tôi sẽ trả
lời gẫy gọn câu ấy, nếu như một tỉnh nào khác hỏi tôi. Nhưng đây lại là của
Nghĩa Bình. Tôi bối rối quá! Quê mẹ, quê gốc tối ở Quảng Trị (Bình Trị Thiên
bay giờ). Nhưng chính tại Bình Định (Nghĩa Bình) này mà tôi đã viết bài văn đầu
tiên, ra tập thơ đầu tiên, chao ôi! nhớ biết bao người, bao cảnh, bao sự việc
đã giúp mình nên người nên văn ở đấy! Khéo mà tôi lại làm hồi ký mất, rồi lẩm cẩm
dây cà ra dây muống kể lể linh tinh lắm thứ, quên mất cả những kinh nghiệm viết
văn mà các bạn chờ.
Khó cho
tôi còn ở một điểm khác: chuyện lâu quá rồi, nửa thế kỷ rồi, nhớ sao cho hết ?
Tập thơ đầu tay ĐIÊU TÀN của tôi ra năm 1937, khi tôi còn là học trò thầy Ấm (cụ
thân sinh của nhà văn Phan Tứ – Lê Khâm), thầy Hảo, thầy Chí, thầy Vỹ... năm thứ
ba trường trung học Quy Nhơn. Nhưng 1936, 1935 trước đó, tôi đã có thơ đăng ở
báo TIẾNG TRẺ truyện ngắn ở báo KHUYẾN HỌC và truyện vui nghìn chữ XE VÀ XE ở
báo PHONG HÓA ngoài Hà Nội.
Như thế
thì 1933-34, tất tôi đã quanh quất mon men đâu đấy ở bên rào bên rìa ngoại vi
vườn văn học ấy. Cái gì đã đưa tôi đến địa hạt đó? Bài văn hay nào đã thức tỉnh
cho tôi biết cái hay của văn, rồi sau đó bắt chước làm theo, theo như quan điểm
của Aritxtôt (Aristote)? Ông nói: “Hai nguồn gốc của thơ thì một là bắt chước".
Vậy thì tôi đã bắt chước bài văn hay nào?
Răng sạch
không bao giờ sâu
Răng sâu
trông thực là xấu
Đánh răng
thì phải đánh
Cả trên lẫn
dưới
Cả trong lẫn
ngoài
Chả lẽ là
bài văn ấy, mà giờ tôi viết dưới dạng thơ, cho các bạn may ra có thể xúc động
như tôi. Ngoài sáu mươi tuổi, ngoái cổ lại sau, nhớ lại cảm giác thơ đầu tiên,
mối tình đầu của mình với thơ là ở phút nào, thì vẫn nhớ cái khoản sâu răng ấy.
Khi đó tôi khoảng lên bảy, lên tám tuổi, đang học ở Điện Bàn (Quảng Nam). Thầy
giáo bệnh, nghỉ. Em vợ thầy giáo dạy thay một buổi. Chả biết làm gì, anh ấy lấy
quyển giáo khoa Vệ sinh ra đọc chính tả cho chúng tôi viết.
Em vợ của
thầy là điều mới lạ rồi. Tiếng Huế với chúng tôi ở một huyện Quảng cũng lạ. Và
cách đọc chọi chữ sạch (trắc) với chữ sâu (bằng), chọi chữ sâu (bằng) với chữ xấu
(trắc)... cách anh ấy cắt đoạn cả trên lẫn dưới sao cho nhịp nhàng với cả trong
lẫn ngoài... càng lạ hơn. Tổng cộng những cái lạ ấy gây cho tôi một sự phấn chấn
lạ thường, thơ là gắn liền với lạ mà: Giờ đây nhớ lại vẫn còn nghe vang vang
cái giọng Huế đọc bài “Răng sâu” ấy. Nhớ cả dáng anh ấy đi lại nhẹ nhàng giữa lớp
học im phăng phắc, tiếng gió ngoài sân và ánh nắng trên cửa kính nhà trường.
Aritxtốt lại nói đúng. Trong hai nguyên nhân làm ra thơ, theo ông, một là sự bắt
chước, còn hai thì là cái này đây: lòng yêu thích nhịp điệu, yêu thích hài hòa.
Theo tôi
nghĩ thì những cái ngoài văn, xa văn, không phải văn có khi mở đầu cho việc yêu
văn. Ở đây là một âm điệu. Biết đâu với em khác lại là một sắc núi, một mùi
hương, một kỷ niệm nào đó rất vui hay đau xót. Miễn là nó đánh trúng vào tâm hồn
nhạy cảm của em, mở cho em thấy một cái gì mới lạ. Và bồi dưỡng viết văn là như
vậy, là bởi dưỡng từ xa và phải làm từ rất sớm, từ chỗ chưa phải văn mà mới chỉ
là tâm trí, tấm lòng.
Hình như tất
cả các em đều trải qua một phút được chấn động, được thức tỉnh như vậy, chứ
không phải chỉ có những người làm thơ. Có điều em này được đánh thức liền dậy;
em kia ngủ tiếp; em kia nửa thức nửa dậy, không làm thơ nhưng làm thứ khác,
v.v... Bồi dưỡng cho các em tức là sau khi các em được chấn động bởi tiếng vang
ban đầu, ta phải tiếp tục nuôi cho các em sự rung động thường xuyên. Nuôi bằng
gì? Bằng những bài văn, cố nhiên, nhưng phải là văn hay kia, chứ không phải loại
“ răng sạch, răng sâu” đâu nhé ! Vì chỉ có văn hay mới đẻ ra văn hay được.
1935: Yến
Lan học trên tôi hai lớp, bày cho tôi một bài của Tản Đà, nay còn lưởng vưởng
trong óc tôi: “Gió mùa thu. Lá vàng rụng bay. Các cậu đi học. Áo rách thì mẹ
vá. Không có áo lành thì mẹ may... Công mẹ không đến nỗi như mùa thu lá vàng rụng
bay, vv…”
Nhờ những
bài thơ hay của Lơcôngtơ đờ Lilo (Leconte de Lisle) viết về chiến trường, tôi
viết bài CHIẾN TƯỢNG. Nhờ văn CHIÊU HỒN của Nguyễn Du, nhờ ÁC HOA (FLEURS DU
MAL) của Bôdờle (Baudelaire), tôi viết về cái chết trong ĐIÊU TÀN vốn đã gặp nó
ở bãi tha ma và ở sọ dừa trong phòng thí nghiệm nhà trường.
Nhưng chuyện
lấy văn nuôi văn, ta bàn đến sau. Một nhà thơ nước ngoài viết: “Cái chỉ là thơ
thôi, giết chết thơ”. Một mình thơ làm sao đẻ và thơ được? Nó phải kết hợp với
gì chứ? Với mảnh đất này. Cách nhà báo, nhà nghiên cứu có nhiều kinh nghiệm,
khi tìm hiểu một tác giả, thường cứ dạy đi dạy lại câu hỏi: “Ngày nhỏ anh sống ở
đâu? Cho tôi biết ơn cái tháp Chàm và thành Bình Định cũ, biết ơn cái huyện lỵ
An Nhơn hẻo lánh và những chuyến tàu đêm Bình Định – Diêu Trì; biết ơn bờ biển
Quy Nhơn vỗ sóng ru tôi và ơn những rừng dừa từng rợp bóng lên tôi.
Cành dừa
cao say sưa ôm bóng ngủ. Chính là dừa ấy chứ còn đâu? Tôi không theo thuyết ba
chữ M- moment (thời gian), mode (phong trào), milieu (địa điềm) thế kỷ thứ 19 của
Pháp, nhưng tôi phải biết ơn là đã được sống ở Nghĩa Bình thời gian ấy, qua những
địa danh kia. Sau này thơ tôi có day dứt về sử.
Đất nước
làm thơ mà thiếu người viết sử. Chính là tôi đã lớn lên trên đất sử từng lẫy lừng
Chàng Lía, Mai Xuân Thưởng, Quang Trung... Trong ĐIÊU TÀN có nói đến nỗi đau mất
nước vì 1937, cùng với Nguyễn Viết Lãm, Phú Sơn, chúng tôi đã là bạn thân, là
em của những người cộng sản, đặc biệt là anh Nguyễn Minh Vỹ lúc ấy là linh hồn
của nhóm.
Chả lẽ lại
nói là những kiểu kiến trúc đặc biệt của nhà lá mái, cửa bàn khoa Bình Định,
hay cái vòng quay kiên trì triền miên của các xe nước ngoài Quảng Ngãi đã cho
tôi sự chịu khó trong thơ? Nhưng quả là những đêm hát bội ở An Thái, các cuộc đổ
giàn ở An Vinh làm cho tôi yêu chất hùng tráng sau này ta gọi là sử thi hay là
gì nhỉ? Rồi đây các bạn cũng nên tổ chức lại trò đổ giàn, đó chả là Olempich
(Olympic) của ta đấy sao? Một cái giàn cao hàng chục mét, có con heo quay trên ấy,
và dưới đất là hàng chục đoàn võ sĩ từ Qui Nhơn, Đập Đá lên, Bình Khê xuống,
Hoài Ân, Hoài Nhân vào, cùng với các võ sĩ An Thái, An Vinh tại chỗ đang chờ đợi.
Khi con heo ném xuống là một cuộc “tỉ thí lôi đài” dữ dội để giành cho được con
heo kia, dấu hiệu đoàn nào sẽ là vô địch năm này. Chất hùng ca trong thơ làm
sao không dính líu, cái dây đồng trong thơ, làm sao không dính líu với các cuộc
đổ giàn thượng võ này?
Blake nói
khá đúng là “văn hóa đi bằng lối thẳng, còn nghệ thuật thì đi các lối ngoằn
ngoèo”. Trong ĐIÊU TÀN có yếu tố thần bí vì tuổi trẻ tôi tìm trong tiếng tụng
kinh trước bàn thờ Phật của cha tôi, và trường tôi nằm trong tầm ngân vang của
chuông nhà thờ đạo Kim Châu gần đấy.
Những yếu
tố thần bí gặp trong đêm tuổi thơ Bình Định, khi tôi lớn lên gặp Đảng, nó không
biến mất đi mà lại hóa ra thứ khác giữa ánh sáng ban ngày. Đấy là các câu thơ
đánh Mỹ:
…Kinh địa
tạng xé theo súng 12 ly 7.
…Những năm
chiến tranh mặt Chúa cũng sầu thương
... Mặt Phật
không cười cùng hoa sen nữa…
Giữa quá
khử và hiện tại vừa có đứt, vừa có nối. Nên nối cái gì, để đứt cái gì là nhiệm
vụ người viết phải lo. Nhưng quả là để tạo nên một người viết văn, cần nhiều yếu
tố, nhiều chất, nhiều cảnh, nhiều tình cụ thể của cuộc đời cụ thể này, chứ chỉ
văn đâu có đủ, dù cho đây là văn hay đến tuyệt vời.
Cần, đúng
rồi, nhưng sao lại phải nhiều? Có nhiều mới đa dạng, phong phú. Có nhiều mới
không đơn giản và đơn điệu. Có nhiều thì mới tổng hợp được, chứ ít thì tổng hợp
nỗi gì?
Marinetti
nói: “Thơ là say và tổng hợp”. Arix Tốt nói: “Thơ tổng hợp hơn sử, vì sử đi vào
cụ thể”. Do đó thầy giáo vừa phải tạo cho các em sống được nhiều, biết được nhiều
điều cụ thể, vừa phải giúp cho các em biết tổng hợp, liên hệ, khái quát, biến
hóa các cái cụ thể ấy. Vừa phát triển các giác quan, vừa tập luyện sự thao tác
của tư duy.
Cao Bá
Quát viết: Mặt trời đẻ trứng gà trên vách. Nguyễn Du viết: Vầng trăng ai xẻ làm
đôi. Tương An viết: Bốn dây ứa máu tỳ bà. Hàn Mặc Tử viết: Tiếng gà gáy rụng
trăng đầu hạ. Tức là không phải chỉ cảm xúc mà còn làm hóa chất giữa các cảm
xúc.
Ở trên,
tôi có nói tôi là học trò thầy Hảo, thầy Ấn, thầy Vỹ, thầy Chí. Chỉ có mình thầy
Hảo dạy văn. Tôi yêu văn chính nhờ không phải chỉ sự uyên bác của thầy mà cả
ánh mất ngầm cổ vũ của thầy. Nhưng không có toán của thầy Ấm, khoa học của thầy
Chí, sử địa của thầy Vỹ thì làm sao tôi biết cộng sự vật này cùng sự vật kia,
nghĩ rằng sự vật này có thể biến thành sự vật kia, thậm chí con tằm là bướm đấy
thôi, sự vật này chính là sự vật kia đấy. Có được óc phân tích là nhờ các thầy,
mà có được ốc tổng hợp Marinesi, Ari- xtốt ca tụng trên kia cũng là nhờ ở các
thầy, đúng hơn, nhờ ở vốn văn hóa mà các thầy truyền đạt cho tới.
Một thuyết
lớn ảnh hưởng tất cả nền thơ châu Âu hiện nay là thuyết Correapondinees (tương
giao), thuyết này có cách đây hơn 200 năm trước. Ở tiểu học Bình Định, tôi đã gặp
các mùi hương, các màu sắc, các âm thanh. Nhưng về đến Qui Nhơn, khi anh N.M.Vỹ
giảng cho tôi Bôđờle thì tôi mới biết thuyết ấy, biết rằng: Les parfums, les
couleurs et les sons se répondent (Mai hương, màu sắc và những âm thanh tương
giao cùng nhau)
Ừ, cơn rét
có thể ngọt lắm chứ, màu đỏ có thể kêu vang, và tôi nghe thấy lạnh khi chiều xuống,
khi gió thu về... Các cảm giác tương giao, tương hỗ. Và giữa lúc ấy thì các thầy
khoa học dạy cho tôi về chuyển hóa bảo toàn năng lượng, cơ năng biến thành nhiệt
năng, nhiệt năng thành điện năng và điện năng thành ánh sáng... Những điều khô
khan ấy giúp cho tôi sau này hiểu được câu của nhà triết học Nga “đá và lá cùng
một chất”, yêu câu thơ Pháp “đá và hoa là hai chặng của một tư duy” và đặt tên
tập thơ của mình là HOA TRÊN ĐÁ vừa rồi, biết đâu không nằm trong mạch ấy?
Rút ra
kinh nghiệm gì, hỡi các nhà thơ và các nhà giáo, các nhà giáo có thể già, và
các nhà thơ thường rất trẻ? Cái kinh nghiệm này đây, là làm thơ chỉ biết có thơ
thôi, không được. Làm thơ với trái tim, với chất sống, không đủ. Phải có văn
hóa nữa. Quang năng không làm hại gì đến các trang thơ, và dù trang thơ viết về
bóng đêm cũng nên viết nó dưới nguồn điện sáng.
16-3-1986