Câu chuyện của Nguyễn Ngọc Tư: "Chị cúi nhìn xuống chân cột nhà sàn. Ráo hoảnh. Những chân cột nẻ khô
như chân người cũng chờ đợi được rùng mình tưới tắm. Ngó cái ngấn nước đã dần mờ
chỗ gần gù cột, chị cố nhớ coi cơn lũ để lại dấu tích nọ là năm hay bảy năm trước".
Miền Tây và những cuộc trôi khô
NGUYỄN NGỌC TƯ
Ở
nơi chốn xa lạ đó, nhìn ra cửa chỉ thấy trơ trơ phố xá, mỗi khi mưa lớn, lòng
chị biết đâu thoát khỏi cái ý nghĩ đau đáu sắp tới nước có đủ chan ngập đồng
mình.
Chị kể má chồng sớm nay đòi chị chở đi đập tràn coi nước. Bà má bảo nghe
nước về lớn lắm. Khỏi xác nhận bằng mắt chị cũng biết bà mơ. Dạo này bà hay mơ
kiểu vậy. Nhưng bà già giảy nảy dữ quá khi con dâu nói mình chiêm bao. Mùi nước
rõ ràng vậy mà mơ được sao, bây mơ thì có. Sự quả quyết của má khiến chị đâm ra
ngờ chính mình.
Chị mở cửa sau nhìn ra đồng. Chị cúi nhìn xuống chân cột nhà sàn. Ráo hoảnh.
Những chân cột nẻ khô như chân người cũng chờ đợi được rùng mình tưới tắm. Ngó
cái ngấn nước đã dần mờ chỗ gần gù cột, chị cố nhớ coi cơn lũ để lại dấu tích nọ
là năm hay bảy năm trước. Chờ đợi làm biến dạng thời gian, bởi ngày trở nên dài
quá cỡ và đêm giãn nỡ không cùng. Thường thì những chân cột có ký ức riêng, với
ngấn nước trên mình chúng nhớ được lũ cao lũ thấp. Giờ chúng cũng mất trí.
Nhưng dấu tích thời gian không chỉ trên những tờ lịch vô tủy. Hồi nhớ một
lúc là lần tìm được mối trong chuỗi tháng
ngày mờ. Đám con chị bỏ lên Sài Gòn trước đợt lũ đẹp nọ nửa năm, và một năm sau
cơn nước cột nhà còn lưu dấu, chồng chị cũng đi Kampong Cham. Đêm trước hôm đi,
thu xếp ít bộ đồ, chồng chị nhìn ra đồng cạn, nhắc năm ngoái cũng quãng này anh
lấy xe máy chở má đi Tha La coi người ta xả nước. Chị không đi, vì tiệm nước
mía mấy ngày đó bán luôn tay. Người xe lại qua nườm nượp, như đi hội.
Trong
mớ khách đi coi nước tình cờ có đứa bạn thân hồi cấp hai với chị, mất liên lạc
từ bạn chuyển nhà qua Hòn Đất. Nhìn tóc khói trên đầu nhau mừng tủi. Bạn đi
chân không. Một chiếc là trượt chân làm rơi xuống đập, chiếc còn lại là bạn tự
tay thả vào dòng chảy réo sôi. “Lúc đó
không hy vọng mấy chuyện đôi dép tìm thấy nhau”, bạn nói, “nhưng gặp được mày ở
đây tao tin là có duyên rồi”. Lát sau chồng chị về, bà má vẫn còn nấn ná lại đập
coi nước cho đã mắt, anh bảo vợ giữ bạn lại ăn bánh xèo măng tép. Nói rồi anh
xách lưới đi theo lối cửa trước, cánh đàn bà trong nhà pha bột xào măng vừa
xong thì anh cũng tuôn qua cửa sau với mớ tép rong lẫn cá linh non tươi sống.
Bạn kêu
sao xứ này sống dễ như không, như thể ngồi ngay cửa đưa tay ra là vớt được bao
nhiêu thứ ngon lành. “Coi vậy chớ mùa sau có khi trần ai kiếm miếng ăn”, lúc ấy
anh nói vậy, và chị vợ cằn nhằn cứ nói chuyện mất vui.
Nhưng
chính chị, lúc tiễn bạn về xế chiều hôm đó, cũng lỡ lời. “Năm sau biết lũ có về
không nữa”, chị nói vậy sau hồi hứa hẹn quãng này năm tới đi coi nước lại gặp
nhau. Chỉ là nói thành câu một ý nghĩ không còn là dự cảm. Đói lũ là sao cũng
trải qua rồi, năm sau thấy bạc rạc hơn năm trước. Cơn nước tràn trề này cũng là
tạm bợ thôi. Dân xứ chị thậm chí không còn cầu trời ban cho nước. Bởi biết nước
bị người phía thượng nguồn cầm giữ. Họ chỉ thả nước đi khi thừa mứa, hết sức chứa,
chẳng phải vì thiện chí với một hạ nguồn bạc màu, với lớp lớp thường dân di cư
sau bao mùa nước đói.
Lúc
nhìn chồng nhảy lên xe đò, chị ước phải bà má còn mạnh giỏi chị cũng gồng gánh
má đi. Hoặc theo chồng hoặc theo con. Ở nơi chốn xa lạ đó, nhìn ra cửa chỉ thấy
trơ trơ phố xá, mỗi khi mưa lớn, lòng chị biết đâu thoát khỏi cái ý nghĩ đau
đáu sắp tới nước có đủ chan ngập đồng mình. Má chị cũng thôi mơ thấy nước về nữa,
không chừng. Gần đây bà má không còn phân biệt được chiêm bao hay tỉnh thức.
Như mùi nước khuya qua bà ngửi thấy nó thật vậy mà sao nói ở chiêm bao. Những
năm tháng cuối đời này, mùi nước ấy đánh thức bà suốt, lúc nửa đêm.
Bà
nói nước ở xứ này mùi không giống ở đâu, hương vị nước tháng Chín cũng không giống
như tháng Chạp. Trong âm ỉ chiêm bao má, như bà kể vào sáng sau, mùi nước bao gồm
tổng thể những gì nước mang theo, phủ trùm lên, bao bọc lấy. Mùi chân rạ phân
rã, mùi rễ đu đủ thúi, mùi lũ bèo rong trôi nổi, ngọn điên điển giập bên be xuồng
sau nhát dầm, mùi cá linh ngấm muối, mùi của lớp phù sa đóng lớp trên sàn nhà -
thứ phù sa mịn như da trẻ sơ sinh. Nhưng còn loạt mùi từ bỏ danh tính riêng,
chúng hòa mình vào nước, thành một khối hương ngòn ngọt đi qua những xóm làng,
những đập tràn, làm thành ký ức.
Hồi
còn minh mẫn, bà má chưa bao giờ coi lũ là thứ thù nghịch với dân xóm mình. Cả
một vài năm lũ giở chứng dữ dằn, hung tợn. “Người còn có khi nóng giận, sao con
nước lại không, mà có phải tự dưng nó vậy đâu, chẳng phải do con người ta đốn
cây phá núi?”, bà nói. Đứng về con nước vô điều kiện, bà càm ràm cách làm thủy
lợi coi nước là địch họa lấy đê ngăn đánh chặn từ xa, bà cũng không ưa nổi mấy
bài hát ỉ ôi về phận người đói khổ trong cơn lũ. “Nước cho dân mình bao nhiêu
thứ, đất màu mỡ cũng nhờ nó, tôm cá sinh sôi cũng nhờ nó, sao không giỏi hát
bài ca ngợi, mang ơn?”. Được thì bao nhiêu không kể, mất có chút đã trách phiền,
chỉ nhìn thấy mặt xấu, ăn ở bạc vậy nước bỏ đi luôn là phải, sau này bà má thường
hay nói vậy, khi ngó ra cánh đồng đói lũ dày cỏ dại. Mọi thứ không được nước
lau rửa, cỗi cằn làm sao.
Lúc
đó thằng con đầu mới dợm rời quê đi sau khi bỏ học. Tiễn con lên xe, chị không
biết nỗi đau chia biệt sẽ lặp lại thêm vài lần nữa.
Nước
không về.
Người
rời đi.
Cứ vậy.