‘Em bé Napalm’ là bức ảnh nổi tiếng nhất về chiến tranh Việt Nam, sau nửa thế kỷ lại xôn xao dư luận về câu chuyện bản quyền liên quan đến tác giả Nick Ut. Là nhân vật chính trong bức ảnh, ‘em bé Napalm’ Phan Thị Kim Phúc đã có đôi lời về nhiếp ảnh gia Nick Ut.
“Em bé
Napalm” ghi lại cảnh cô bé Phan Thị Minh Phúc ở Trảng Bàng, Tây Ninh bị trúng
bom Napalm, được hãng thông tấn AP ghi tên người chụp là Nick Ut vào tháng
6/1972. Năm 1973, “Em bé Napalm” được trao giải thưởng báo chí Pulitzer danh
giá, và tên tuổi nhiếp ảnh gia Nick Ut được xem như một huyền thoại truyền
thông Việt Nam.
Đầu năm
2025, một bộ phim tài liệu có tên gọi “The Stringer” của đạo diễn người Mỹ gốc
Việt Bảo Nguyễn đã đưa ra nghi vấn về tác giả thực sự của “Em bé Napalm” có thể
là phóng viên nghiệp dư Nguyễn Văn Nghệ cũng từng tác nghiệp tại hiện trường với
Nick Ut.
Nhiếp ảnh
gia Nick Ut đã phản ứng gay gắt trước nội dung bộ phim tài liệu “The Stringer”.
Còn nhân vật chính trong bức ảnh “Em bé Napalm” là Phan Thị Kim Phúc, cũng tỏ
ra bất ngờ vì những thị phi đang bủa vây nhiếp ảnh gia Nick Ut. Vì vậy, bà Phan
Thị Kim Phúc đã viết một bức thư “Gửi những ai quan tâm” mà chúng tôi giới thiệu
dưới đây.
Tôi được
biết rằng hiện đang có một bộ phim được thực hiện bởi Gary Knight và nhóm của
ông, trong đó ủng hộ những cáo buộc sai sự thật của Carl Robinson, rằng Nick Ut
không phải là người đã chụp bức ảnh đoạt giải Pulitzer nổi tiếng mang tên “Em
bé Napalm”. Bức ảnh đó là về tôi – Phan Thị Kim Phúc – một cô bé 9 tuổi không mặc
quần áo, đang chạy về phía ống kính sau khi một cuộc không kích bằng bom napalm
của Không quân Việt Nam Cộng hòa nhầm lẫn giáng xuống ngôi làng Trảng Bàng của
tôi vào ngày 8 tháng 6 năm 1972, thay vì vào lực lượng quân đội miền Bắc gần
đó.
Tôi đã từ
chối tham gia vào cuộc tấn công sai lệch và vô lý này nhằm vào Nick Ut – điều
mà ông Robinson đã theo đuổi trong nhiều năm qua – và tôi cũng chưa bao giờ trả
lời email của ông ấy đề nghị tôi trò chuyện. Tôi hy vọng ông ấy sẽ tìm được sự
bình yên trong cuộc đời mình. Tôi không nhớ rõ từng phút giây ngày hôm đó,
nhưng tôi sẽ không bao giờ tham gia vào bộ phim của Gary Knight, bởi tôi biết
nó là sai sự thật.
Tất cả những
nhân chứng có mặt vào ngày kinh hoàng ấy – bao gồm cả chú của tôi – đã nhiều lần
xác nhận trong suốt những năm qua rằng chính Nick Ut là người đã có mặt tại hiện
trường, là người chạy đến phía tôi để chụp bức ảnh, rồi đưa tôi đến bệnh viện gần
nhất – Bệnh viện Củ Chi. Những nhân chứng ấy bao gồm các nhà báo, nhiếp ảnh gia
và quay phim quốc tế như David Burnett, Fox Butterfield, Chris Wain và Alan
Downes (người không may đã qua đời vì ung thư vài năm trước) – những người mà
tôi đã quen biết suốt nhiều năm và đều trở thành bạn thân của tôi.
Khi tôi
đang trong trạng thái sốc, ngất đi sau khi bỏ chạy khỏi vụ nổ napalm và được
đưa nước, họ đều xác nhận rằng họ đã nhìn thấy Nick Ut – người duy nhất đã chạy
lên phía trước để chụp bức ảnh. Ngoài ra, chú tôi chính là người đã cầu xin
Nick và người lái xe của AP đưa tôi đến bệnh viện Củ Chi.
Chú tôi kể
lại nhiều lần rằng không ai khác nhận lời đưa tôi và những nạn nhân bị bỏng
khác đi, vì hầu hết mọi người đều muốn quay về Sài Gòn trước khi trời tối vì sợ
bị phục kích hoặc tấn công trên đường. Chỉ có Nick Ut là người đã đồng ý trước
lời cầu xin của chú tôi.
Tôi vẫn
không thể nhớ trọn vẹn sự kiện ngày 8 tháng 6 năm 1972, chỉ có những mảnh ký ức
thoáng qua. Nhưng từ những điều mà chú tôi và em trai tôi – Phước (khi đó mới 5
tuổi, có mặt trong bức ảnh và cũng ở trong chiếc xe chở chúng tôi đến bệnh viện
Củ Chi) – kể lại cho tôi, tôi không có chút nghi ngờ nào rằng chính Nick Ut là
người đã cứu mạng tôi bằng cách đưa tôi đến bệnh viện. Vì điều đó, tôi sẽ mãi
biết ơn ông.
Cha mẹ tôi
cũng kể lại rằng Nick Ut, cùng với Horst Faas (Trưởng phòng ảnh AP tại Việt
Nam) và phóng viên AP Peter Arnett, đã quay trở lại hiện trường vụ napalm ở Trảng
Bàng vào ngày hôm sau – 9 tháng 6 – để phỏng vấn thêm các chỉ huy quân đội Việt
Nam Cộng hòa và người dân địa phương. Chính tại đây, cha mẹ tôi – đang hoảng loạn
đi tìm tôi – đã gặp được Nick Ut.
Nick Ut
nói với cha mẹ tôi rằng ông đã đưa tôi đến bệnh viện Củ Chi, từ đó họ bắt đầu
hành trình tìm kiếm tôi. Ban đầu họ tìm đến bệnh viện Củ Chi mà không biết tôi
đã được chuyển đến Bệnh viện Nhi Đồng 1 ở Sài Gòn, rồi cuối cùng là đến Bệnh viện
Barsky – nơi có khoa bỏng. Cha mẹ tôi rất yêu quý Nick Ut và mãi biết ơn ông vì
đã cứu mạng tôi.
Trong mắt
cha mẹ và anh em tôi, Nick Ut là một thành viên trong gia đình. Ông từng đến
thăm gia đình tôi ở Trảng Bàng vào năm 1973, điều này được minh chứng qua bức ảnh
chụp chung của ông và tôi tại nhà đã được đăng báo năm đó. Những năm sau, ông vẫn
thường đến thăm, tặng quà cho hai anh trai tôi là Tâm và Phước, cùng các anh chị
em họ của tôi – những món quà đã làm chúng tôi vô cùng thích thú. Đến tận bây
giờ, ông vẫn thường ghé thăm người em họ của tôi ở Trảng Bàng, mua rất nhiều
trái cây và cà phê để ủng hộ quán cà phê nhỏ của cô ấy.
Kể từ khi
tôi được định cư tại Canada vào năm 1992, tôi và Nick Ut vẫn nói chuyện với
nhau ít nhất mỗi tháng một lần. Chúng tôi đã cùng nhau thực hiện các sứ mệnh
nhân đạo và diễn thuyết công chúng gần như hàng năm.
Khi tôi bảo
lãnh cha mẹ sang Canada sống cùng mình, Nick Ut là một trong những người đầu
tiên đến chào đón họ. Ông là một phần quan trọng trong gia đình tôi. Chính Nick
Ut đã đến thăm mẹ tôi khi bà dần mất trí nhớ. Mẹ tôi luôn vui vẻ sau mỗi lần gặp
“chú Nick”.
Là người Mỹ
gốc Việt duy nhất từng đoạt giải Pulitzer trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam –
và vẫn là người trẻ nhất từng đoạt giải – tôi không hề nghi ngờ, cả bằng lý trí
lẫn con tim, rằng chính Nick Ut là người đã chạy đến phía tôi và chụp bức ảnh nổi
tiếng đó.
Nick Ut đã
chụp bức ảnh, và ông xứng đáng với mọi ghi nhận mà ông nhận được. Ông là một
người đàn ông tốt, xứng đáng được đối xử bằng sự tôn trọng, phẩm giá và lòng tử
tế. Tôi vô cùng biết ơn vì ông không chỉ là một nhiếp ảnh gia. Ông là người
hùng của tôi – người đã gác máy ảnh xuống, đưa tôi đến bệnh viện và cứu sống
tôi ngày hôm đó. Không một ai khác làm điều đó vào ngày kinh hoàng ấy. Chỉ có
chú Nick Ut.
PHAN THỊ KIM PHÚC