Hoàng Trung Thông không chỉ là một nhà thơ. Ông là một
người hoạt động văn nghệ chuyên nghiệp. Thậm chí có thể gọi là một “ông quan”
văn nghệ với những chức trách quan trọng mà ông được giao phó: Tổng Biên tập
Báo Văn nghệ, Giám đốc Nhà xuất bản Văn học, Vụ trưởng Vụ Văn nghệ Ban Tuyên
giáo Trung ương, Viện trưởng Viện Văn học. Ở ông con người nghệ sĩ và con
người quan chức không loại trừ nhau mà song hành tồn tại. Tôi trộm nghĩ, vào những
năm cuối đời, kể cả trước khi rời Viện Văn học về nghỉ hưu, con người nghệ sĩ
trong ông đã có phần lấn át. Hay nói đúng hơn, ông đã sống một cách thoải mái,
thành thật với con người mình, cả trong thơ lẫn trong đời.
Nhà
thơ Hoàng Trung Thông: Anh sống như anh viết
LƯU KHÁNH THƠ
Điều đó đã được bộc lộ phần nào trong tập “Mời trăng”
- tập thơ sau chót của đời ông và trong cả những câu chuyện mà đám bạn rượu ở
Trúc viên quán thường được ông chia sẻ. Bài Nhìn ông viết tặng họa
sĩ Mai Văn Hiến là một ví dụ: "Bên kia đường một người bơm xe/ Bên
này đường một người bét nhè/ Còn tôi/ Không bơm xe, vá xe/ Không say rượu/ Tôi
ngẩn ngơ trông/ Dưới gốc hòe mát rượi/ Xe có thể bơm/ Rượu có thể say/ Tôi một
mình nhìn và nhớ bạn/ Thấy đời mình bớt nỗi đắng cay". Vẫn phảng phất
tâm thế của men say nhưng thật chân tình và xa xót. Bạn bè, đồng nghiệp yêu quý
ông và bạn bè cũng là chỗ dựa tinh thần của ông trong mỗi bước vui buồn của cuộc
đời.
Năm 1975 nhà thơ Hoàng Trung Thông về làm Viện trưởng
Viện Văn học theo lời mời của giáo sư Đặng Thai Mai. Trái với tư thế nghiêm nghị,
mực thước của vị Viện trưởng tiền nhiệm, nhà thơ Hoàng Trung Thông có tác phong
giản dị gần gũi của một cán bộ quần chúng và sự phóng khoáng, thoải mái của người
nghệ sĩ, nên các lớp cán bộ trẻ rất dễ gần. Ông ghé vào đâu, anh em có thể thoải
mái nói chuyện hàng giờ với ông. Gặp ở ngoài đường, có thể cùng nhau tạt
vào một quán nước chè, muốn bàn gì với ông cũng nhanh và tiện. Những lúc
tỉnh táo, ông nói chuyện hấp dẫn, dí dỏm với những ý kiến sâu sắc, uyên bác về
văn học.
Nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn đã nhận xét thật
chính xác về ông: “Sự đọc của Hoàng Trung Thông chắc chắn kỹ lưỡng. Tuy không
có cái tài hoa và cả cái bùng nổ của Xuân Diệu nhưng ở đó vẫn có cái phần phát
hiện nho nhỏ mà các nhà hàn lâm không thể có. Cảm tưởng như ông từ trong văn học
nhìn ra chứ không phải từ ngoài nhìn vào. Học giúp cho chất nghệ sĩ của Hoàng
Trung Thông được bồi bổ. Học làm cho ông khuôn phép hơn mà cũng ngang tàng
hơn”.
Đối với các tác giả văn học Việt Nam hiện đại, những
bài chân dung tiểu luận của Hoàng Trung Thông mang một sắc thái riêng mà không
phải nhà phê bình nào cũng có được. Hầu hết ở đó đều bộc lộ sự hòa trộn giữa khả
năng phân tích nghiên cứu với sự cảm thông đồng điệu. Phải chăng cũng vì lẽ
đó mà ông là người rất tích cực làm cầu nối thiết lập mối quan hệ giữa những
người nghiên cứu phê bình với người sáng tác khi ông về làm Viện trưởng Viện
Văn?
Khi viết về Nguyễn Tuân, bên cạnh những lời đánh giá
nghiêm túc: “Tôi biết có lúc Nguyễn loạng choạng, nghiêng ngả. Nhưng khi
anh vịn vào từng câu văn, từng trang văn, anh đứng thẳng dậy rồi anh đi, đi
đàng hoàng và có lúc đi nghênh ngang nữa để cùng với những bạn văn của mình đi
tới đỉnh cao của văn chương Việt Nam”, là những câu chuyện xúc động về các chuyến
đi, về việc Hoàng Trung Thông đã được chứng kiến những giọt nước mắt của Nguyễn
Tuân khóc thương người đào hát. Đấy là khi Nguyễn Tuân rủ ông tìm đến làng
cũ thăm thì biết tin cô đào xưa đã mất. Đêm đó, Nguyễn Tuân vừa uống rượu vừa
hát đi hát lại bài Giọt mưa thu của Đặng Thế Phong. “Lần đầu tiên tôi
mới thấy Nguyễn Tuân vừa uống rượu, vừa hát, vừa khóc. Đó không phải là giọt
mưa thu, mà là giọt nước mắt còn sâu đậm hơn nhiều!”.
Ngay cả với Nam Cao, người đã hy sinh rất sớm từ năm
1951, Hoàng Trung Thông cũng đã có dịp gặp gỡ một lần tại Việt Bắc. Và thật
bất ngờ, trong hàng trăm bài viết về nhà văn hiện thực xuất sắc này của các tác
giả khác nhau, chúng ta lại thấy những dòng này của nhà thơ họ Hoàng: “Nam Cao
là người rất tỉnh. Nhưng có lúc Nam Cao cũng say. Ai đã từng uống rượu với Nam
Cao thì mới biết hết tấm lòng của anh. Khi rượu bốc lên, anh cũng chửi văng mạng
như Chí Phèo. Lúc đó, có lẽ mới thật là Nam Cao. Nhưng lúc đó, Nam Cao hóa Chí
Phèo, hay Chí Phèo hóa Nam Cao?”.
Ngay khi nghe tin nhà thơ Xuân Quỳnh, Lưu Quang Vũ
qua đời, ông đã đi bộ từ nhà ở phố Ngô Quyền đến 20 Lý Thái Tổ, Viện Văn học
tìm tôi để chia buồn và đưa tôi đọc bài viết Nhớ thương ơi, hoa quỳnh mùa
xuân, ông mới viết xong đêm trước. Ông đã có một thời gian là thủ trưởng của
nhà thơ khi chị làm việc ở Báo Văn nghệ. Trong đó, tuy chỉ đôi nét chấm
phá, ông đã nói rất trúng và rất đúng những đặc điểm tính cách và trong thơ
Xuân Quỳnh. Khi có việc phong học hàm giáo sư cho các chuyên gia ở viện nghiên
cứu, ông đã từ chối với lý do “Làm một nhà thơ cũng đủ lắm rồi!”.
Những năm cuối cùng ở Viện, ông thường say, phải
chăng có một nguyên nhân sâu xa hoặc trực tiếp nào đã khiến ông phải tìm đến rượu?
có nhiều điều đáng kể xung quanh chuyện ông và rượu. Có lần ông đọc cho chúng
tôi nghe họ đã chế tác câu thơ nổi tiếng của ông thành: Bàn tay ta làm nên
tất cả/ Có sức người sỏi đá cũng thành... men. Nhiều đồng nghiệp ở Viện Văn học
đã được nghe ông tâm sự: Bác có thể bỏ được điều này thứ kia nhưng có 4 thứ bác
không bao giờ bỏ và không sao bỏ được. Đó là Tổ quốc, là thơ, là vợ và là rượu.
Việc uống rượu của ông cũng khiến Chế Lan Viên, một
người bạn thân thiết lo ngại. Qua những bức thư có thể thấy tình cảm thắm thiết,
sẻ chia giữa hai nhà thơ lớn của đất nước:
"Thông thân yêu!
Anh em viết thư vào cho biết Thông yếu, ốm khật khưỡng.
Nhưng qua thư của Thông lần này thấy chữ rắn rỏi, lời rõ ràng, mạch lạc hơn trước
nên cũng mừng. Sức khỏe trên hết thôi Thông ạ... Buồn nên ta phải uống rượu.
Nhưng bây giờ buồn quá thì uống nỗi gì. Lý Bạch mà buồn như ta thì cũng không
dám viết câu “tu hành lạc” nữa... Nhưng ta phải khỏe, không được buồn, phải tỉnh
táo. Mình 68, cho già là sống đến 75 mà không già thì 70 đi. Bảy mùa hoa hay ba
mùa gì nữa thì cũng phải khỏe... Bớt rượu, bớt buồn thì mới khỏe, mới tồn tại...".
(Thư quên đề ngày)
"Thông thân yêu,
...Được thư Thông, rất mừng. Từ hôm gặp Thông năm
ngoái đến nay tụi mình cứ nhớ bữa rượu mà Thông và chị đãi mình và Thường trước
khi đi nghỉ ở Liên Xô.
Nhưng Thông an tâm. Sức khỏe mình “về vườn” lại khá
ra. Mình xách nước, hốt bèo, bón cây, nhảy xuống hố lấy phân khá thành thạo...
Để cho đỡ nản, mình thi vị hóa khu vườn này đặt cho nó một cái tên hơi “cải
lương La Mã diễm huyền” - “Viên tĩnh viên” mà các con gọi đùa là “viên viễn
viên”.
Hoa cũng dần thưa, bướm bỏ quên
Căn vườn dân dã vốn không tên
Xanh vui chỉ có màu xanh cỏ
Ta đặt cho lòng Viên tĩnh viên.
Mong có ngày Thông vào đây, ở chơi với vợ chồng mình
dăm hôm và mình cũng có tí tửu đãi Thông chứ.
...Vậy thì năm 1988 Thông lo tập hợp thơ đi, nửa năm
mình viết Tựa, in, thì đầu năm 1989 có Tuyển. Mình chắc còn sống đến năm ấy...
Nghĩ đâm buồn cho mình... Chả còn mấy ngày xuống mồ, lẽ ra làm từ 1986 mới phải
chứ"
15-9-87
"Thông thân yêu,
Đọc thư ông, mình muốn khóc. Cả nhà cũng buồn. Không
cần ông nói, cũng đoán ra là sự sống ngoài ấy khó! Trong này dầu sao cũng dễ thở
hơn...
...Sáng nay dưới phố ông Giang nhắn mình viết bài về
lễ truy điệu Thanh Tịnh! Cứ cái đà này còn “đi” nhiều nhiều. Nghe Bổng mổ mắt,
Phồn yếu, Lư yếu, Tô Hoài yếu, Đỗ Nhuận liệt, Hanh mắt mờ, Trần Huyền Trân hoại
thư, Nguyễn Minh Châu sốt lại dữ.
...Đừng lo chi cho mình. Mình ở đây khí hậu tốt,
trong tháng trước có khạc ra máu nhưng lại khỏe ngay. Ở đây viết, bài báo, nói
chuyện cũng có tiền, cho nên mặc dù cho thiên hạ “vô hiệu hóa”, mình và Thường
vẫn lay lắt sống được. Viết được...".
20-7-88
"Thông thân yêu,
Mình vào viện kiểm tra ruột. Hóa ra huyết áp 17/10.
Xoàng thôi chẳng đáng lo. Lại vì thiếu máu cơ tim. Cái ấy cũng không nguy bằng
thiếu tiền. Nhưng rắc rối là tìm ra phổi có nước. Pleuresie tuy không có vi
trùng. Nước đẹp xanh như nước của tình yêu ông. Màu xanh pha vàng 100cc rất đẹp,
cố nhiên là đâm mũi kim vào để lấy ra. Đau lắm nhưng mình phải đóng vai anh Trỗi.
Xong, lại đâm hai mũi nữa để lấy một tế bào của một cái hoặc sẹo cũ hoặc là u mới.
Cuối cùng thì là u mới. Nhưng họ không nói cho mình biết đó là u gì, chỉ biết
có ba quan tòa lớn hội ý, rồi cắt u. Nghĩ rằng sẽ có bao nhiêu người vui khi
mình gặp tai nạn, nên mình thấy mình có ích. Nghĩ mình là người đã xong nhiệm vụ
lịch sử từ lâu, thì lịch sử rút lui là điều cần. Nghĩ bệnh viện giỏi, sức đề
kháng của mình cũng tốt, mọi việc giải quyết sớm nên chả có gì lo, và hẹn sẽ
cùng với ông một chén rượu lúc nào đó, sang năm ở đây hay ở Hà Nội".
9-9-88
Vào cuối tháng 6/1988 trong bức thư cuối cùng gửi
nhà thơ Chế Lan Viên, ông viết: “Thông định vào trong kia một chuyến và trò
chuyện với Hoan nhưng không có tiền. Yếu lắm. Yếu cả về tiền bạc và thể lực.
May mà viết xong được truyện thơ. Nhà xuất bản đang giục giã cố gắng để ra được
vào năm 1990. Không biết mình còn sống được đến năm đó không?”.
Hoàng Trung Thông đã sống hết mình cho đời, cho thơ
và cho tình yêu. Những gì ông đã làm được cho cuộc đời thật đáng kể, cho dù
trong một bài thơ tặng vợ ông khiêm tốn nói rằng: "Đời anh rong chơi/ Anh sống
như anh viết".
Nguồn: An Ninh Thế Giới số tất niên