Nhà phê bình Đinh Quang Tốn
suy tư: “Phê bình dựa vào tình cảm vẫn có thể khoa học và phê bình hàn lâm vẫn
có thể thiên vị. Hoài Thanh là một nhà phê bình tình cảm, ông yêu thương các
nhà Thơ Mới hết lòng. Nhưng Hoài Thanh vẫn gọi được hồn cốt của từng nhà thơ,
thậm chí với một số người ông còn bắt mạch đúng tương lai của họ. Vậy là phong
cách phê bình không ảnh hưởng đến giá trị khách quan khi đánh giá tác phẩm. Còn
có một số người phê bình hàn lâm dùng đủ phương pháp phê bình khoa học mà thực tế
việc đánh giá lại rất thiên vị. Thì ra, dùng “vũ khí” gì trong phê bình không
phải là vấn đề quan trọng nhất”.
YÊU NHAU CỦ ẤU HÓA TRÒN
ĐINH QUANG TỐN
1.
Từ
bao đời, dân gian đã lưu truyền câu ca: “Yêu nhau củ ấu hóa tròn/ Ghét nhau thì
quả bồ hòn thành vuông”, để nói về sự thiên vị của tình cảm trong cuộc sống. Lịch
sử các vương triều đã để lại những bài học sâu sắc do sự thiên vị của tình cảm.
Sự công minh thật khó lắm thay! Câu chuyện về nhân vật Tào Tháo trong lịch sử
Trung Quốc là một điển hình về sự thiên vị của nhân dân khi đánh giá nhân vật
này. Trong lịch sử Trung Hoa, Tào Tháo là một anh hùng, một người có tư duy đổi
mới và nhiều chính sách an sinh, cải cách hợp quy luật mang lại những hiệu quả
tốt, quy tụ được nhiều nhân tài... Nhưng lòng dân, theo truyền thống thì mang
tư tưởng trung quân, mà lúc ấy thì vẫn phù nhà Hán. Vì thế, lòng dân đều hướng
về Lưu Bị, ca ngợi Lưu Bị như người nối nghiệp nhà Hán. Trong bộ tiểu thuyết
“Tam quốc diễn nghĩa”, mọi tình cảm tốt đẹp đều dành cho Lưu Bị, còn Tào Tháo
thì bị coi là ngụy tặc vì không phải là dòng dõi nhà Hán. Tào Tháo bị biến
thành một kẻ gian hùng với những mưu mô xảo quyệt, bằng một thái độ thù địch, phê
phán. Một số nhân vật lịch sử của nước nhà do hoàn cảnh lịch sử và xã hội, nhân
dân cũng thể hiện tình cảm đánh giá rất thiên vị.
Có
lẽ vì tình cảm thường thiên vị nên trong công việc phê bình văn chương nghệ thuật
nhiều người có mặc cảm với những phong cách phê bình tình cảm. Thực ra không phải
vậy. Phê bình dựa vào tình cảm vẫn có thể khoa học và phê bình hàn lâm vẫn có
thể thiên vị. Hoài Thanh là một nhà phê bình tình cảm, ông yêu thương các nhà
Thơ Mới hết lòng. Nhưng Hoài Thanh vẫn gọi được hồn cốt của từng nhà thơ, thậm
chí với một số người ông còn bắt mạch đúng tương lai của họ. Vậy là phong cách
phê bình không ảnh hưởng đến giá trị khách quan khi đánh giá tác phẩm. Còn có một
số người phê bình hàn lâm dùng đủ phương pháp phê bình khoa học mà thực tế việc
đánh giá lại rất thiên vị. Thì ra, dùng “vũ khí” gì trong phê bình không phải
là vấn đề quan trọng nhất. Vấn đề là người sử dụng vũ khí đó mà thôi. Những
phương pháp phê bình khoa học và hiện đại mà người sử dụng nó không vô tư hoặc không
thành thạo thì làm gì có kết quả được. Mà nói cho cùng, khi người viết phê bình
còn phải dựa vào phương pháp này nọ tức là họ vẫn chưa thuộc bài, vẫn chưa
thành thạo, vẫn là thời kỳ ở “thao trường” tập luyện thì khó thành công lắm. Nhất
là các phương pháp phê bình lại được sản sinh ra để dùng cho người phương Tây
phê bình các tác phẩm của họ, thì người Việt Nam, người phương Đông sử dụng để
phê bình các tác phẩm văn chương phương Đông liệu có hợp không? Câu trả lời này
những người viết phê bình cần phải làm sáng tỏ. Nó có khập khiễng gì chăng khi
áp dụng các phương pháp phê bình này vào phê bình văn chương Việt Nam, mà tôi
chưa thấy một tác phẩm phê bình nào dạng này thật sự có giá trị cao?
Những
kiệt tác lý luận, phê bình của văn chương nhân loại là những tác phẩm đã vượt
lên trên tất cả các phương pháp. Nói như người phương Đông, đó là “vô chiêu”. Đến
đây, tự nhiên tôi lại nhớ đến nhà thơ Vũ Cao khi ông nói “Lãnh đạo văn nghệ là
không lãnh đạo gì cả”. Đúng rồi, không lãnh đạo gì cả, tức là đạt đến trình độ
cao của lãnh đạo. Còn phê bình “vô chiêu” không dùng phương pháp phê bình gì cả,
đó là đạt đến trình độ cao của phê bình. Nó đã đến trình độ thành thục, tự
nhiên trong lãnh đạo và trong phê bình. Vấn đề là ở tài năng. Người có tài là
người đã hơn người thường một bậc. Tài năng tự nó sẽ biến thành các phương pháp
phù hợp trong từng hoàn cảnh, trường hợp cụ thể. Khi thì tình cảm, khi thì lý
trí mà không khi nào thiên vị cả. Đó là các tác phẩm “Nghệ thuật thi ca” của
Arixtốt, “Văn tâm điêu linh” của Lưu Hiệp, Những tác phẩm phê bình của Viên
Mai, Thánh Thán (Trung Quốc), “Thi nhân Việt Nam” của Hoài Thanh...
Có
người hô hào viết phê bình phải cân bằng giữa lý trí và tình cảm. Thế nào là
cân bằng? Ở đời không bao giờ có sự hoàn toàn cân bằng cả! Nếu phê bình vì văn
chương nghệ thuật thì tự nó sẽ có những ứng tác phù hợp một cách khách quan. Nếu
phê bình vì mục đích ngoài văn chương thì tự nó sẽ lệch lạc. Cũng là nhân nào
quả ấy. Tiếc rằng, rất nhiều người cầm bút viết phê bình hiện nay không hiểu điều
này.
2.
“Cả thế giới đang diễn kịch” - Đó là lời của nhà viết kịch thiên tài người Anh Sếchxpia
(1564-1616) thông qua nhân vật hoàng tử Hăm Lét đã nói cách đây bốn thế kỷ. Bốn
thế kỷ biết bao đổi thay, câu nói ấy càng ngày càng đúng. Bây giờ tôi thấy sự
diễn kịch có biểu hiện ở tất cả các lĩnh vực hoạt động trên thế giới: Chính trị,
văn hóa và kinh tế. Này nhé, chỉ nhìn cái bắt tay của các nguyên thủ, từ nước
nhỏ đến nước lớn, biểu hiện tình cảm với nhau thì ít, mà hướng về ống kính để
quay phim chụp ảnh thì nhiều. Thế là diễn chứ còn gì? Trước kia gặp nhau là
“tay bắt mặt mừng”. “Mặt mừng” là nhìn nhau, hướng vào nhau tươi cười thân thiết.
Còn việc quay phim chụp ảnh là nhiệm vụ của các phóng viên. Bây giờ thì không
nhìn nhau mà nhìn về ống kính. Tức là coi cái ảnh giả hơn là biểu hiện tình cảm
thật?
Trong
cuộc sống thì các nam nữ tân tiến hiện đại chụp ảnh cưới mất hàng chục triệu đồng
nhưng toàn là ảnh giả cưới. Tháng sau mới cưới, nhưng đã chụp ảnh cưới từ mấy
tháng trước. Đi thuê quần áo cưới, thuê xe cộ, mượn khung cảnh để chụp hàng
trăm bức ảnh giả cưới mà không liên quan gì đến đám cưới thật cả. Lưu giữ những
bức ảnh giả cưới để làm kỷ niệm. Ngày cưới thật thì đã có ảnh cưới giả phóng to
hoặc những cảnh phim cưới giả chiếu trên màn ảnh cho hai họ và bạn bè, quan
khách cùng xem. Thế là việc thiêng liêng nhất cũng diễn kịch! Lại còn chuyện một
cô ca sĩ có khuôn mặt đẹp. Nhưng cô lại không muốn để khuôn mặt đẹp thuần hậu
như thế. Cô đi thẩm mỹ viện làm cho mũi cao, dài và nhọn giống mũi người châu
Âu. Cái mũi châu Âu trên một khuôn mặt châu Á đã phá hỏng khuôn mặt cô, trông rất
kệch cỡm khó chịu. Nó cũng là một khuôn mặt giả, diễn kịch. Chẳng còn biết rồi
nền kinh tế thị trường sẽ dẫn mọi người đi đến đâu?
Năm
2012 tôi đến Mỹ. Nước Mỹ đúng là có nhiều sức hút với thế giới về sự phát triển
kinh tế, về tổ chức xã hội. Tôi thấy nước Mỹ cũng bình an, người dân Mỹ cũng
thân thiện. Thì dân tộc nào bản chất tốt đẹp cũng là chính! Tượng Nữ thần Tự do
ở New York du khách khắp thế giới nườm nượp đến thăm quan. Mọi người cũng xếp
hàng rất nghiêm túc từ xa vào gần để được chiêm ngưỡng. Tượng Nữ thần Tự do là
một công trình nghệ thuật văn hóa của thế giới. Nhưng khi đến Trụ sở Đại hội đồng
Liên hợp quốc thì tôi hơi bất ngờ về bức ảnh của ông Ban Kimoon, Tổng thư ký
đương nhiệm của Liên hợp quốc to và giống y như người thật đứng ở trước cửa. Nhiều
du khách đến bên cạnh bức hình để chụp ảnh, quay phim, coi như được chụp ảnh với
Tổng thư ký Liên hợp quốc ở trước cửa trụ sở thật. Tất nhiên chụp ảnh với tấm
hình giả thì chả có vinh dự gì. Cũng là một cách diễn kịch. Nhưng rất nhiều người
chụp. Xu hướng diễn kịch là của cả thế giới chăng? Sếchxpia đúng là thiên tài!
Thảo
nào, văn chương nghệ thuật của nước ta bây giờ đa phần cũng là diễn. Phải chăng
thế là hợp quy luật tiến lên của thế giới? Ai mà không diễn kịch thì bị chỉ
trích là bảo thủ lạc hậu. Từ thơ thiền thời Lý - Trần đến thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn
Bỉnh Khiêm, rồi thơ Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm, Cao Bá Quát, Nguyễn
Công Trứ... Đều lấy hiện thực là chất liệu, chân thực là giá trị. Ngay cả tập
truyện “Truyền kỳ mạn lục” của Nguyễn Dữ (ở thế kỷ XVIII) nói toàn những truyện
truyền kỳ, nhưng truyền kỳ chỉ là vỏ bọc hình thức, còn chân thực vẫn là bản chất
mà mỗi truyện đều đạt tới.
Ai
cũng biết đã là văn chương nghệ thuật là phải hư cấu. Nhưng để đạt đến mức nghệ
thuật thì “bịa phải như thật” như nhà văn Nguyễn Công Hoan nói. “Bịa như thật”
tức là diễn để không ai biết là diễn mới là nghệ thuật cao. Đằng này, văn
chương nghệ thuật của chúng ta những năm gần đây cứ lồ lộ hết, ai ai cũng biết
là diễn. Đó là sự non tay đến mức ấu trĩ, sự làm xiếc để người xem nhận ra các
thủ thuật. Nói cách khác, đó chỉ là trò luyện tập của các học sinh, chưa phải
là văn chương nghệ thuật. Vậy mà, nhiều người lại tưởng rằng thế mới là cao
siêu. Họ cho rằng quần chúng đang ở trình độ thấp, lấy tiêu chuẩn để cho mọi
người không hiểu làm thước đo giá trị tác phẩm của mình. Đó là sự tự huyễn hoặc,
tự lừa mình. Văn chương nghệ thuật đâu phải vậy? Có lẽ nền văn chương nghệ thuật
của nước ta những năm gần đây cũng có những nét tương đồng với nền văn chương
nghệ thuật Nga sau khi Liên Xô tan rã. Một xu hướng đi ngược lại với những gì
trước đây đã xuất hiện. Raxun Gamzatốp đã nói đúng:“Trước đây về một lời nói
thầm của nhà thơ, toàn thế giới đã nghe thấy, còn bây giờ tất cả gào rống lên
trên màn hình vô tuyến nhưng chẳng ai nghe thấy gì” (Trích “Một nền văn
hóa biết xấu hổ”, Lê Sơn dịch, NXB Văn học 2013, trang 30).
“Cả
thế giới đang diễn kịch”. Đó là sự xô bồ của cuộc sống. Nhưng văn chương nghệ
thuật phải là tinh túy của cuộc sống. Nó là bản chất, là sự kết tinh. Nó phải
loại bỏ những gì giả tạo, non nớt, chỉ để còn lại vàng mười, kim cương. Giống
như những câu ca dao, những khúc dân ca, có gì cao siêu đâu, đều giản dị bình
thường mà lưu truyền từ đời này sang đời khác.