VÀI GHI CHÉP NHỎ VỀ “MÁU RẮN”
(Tiểu thuyết
“Máu rắn” của Đỗ Hoàng Diệu, 2024)
VĂN
GIÁ
1.
Nhận được
sách Đỗ Hoàng Diệu gửi tặng từ cuối năm ngoái, bụng bảo dạ sẽ đọc sớm. Mà đọc sớm
thật. Nhưng do vừa bận vừa lười, vừa không dễ đọc, nên cứ năm thì mười họa mới
cầm lên...
Đọc “Máu rắn”,
tôi không dám đọc vào ban đêm. Tôi là kẻ nhát gan, hay bị ám ảnh, hay bị những
cơn mơ kì dị. Trong các con vật, tôi sợ nhất rắn. Có không ít lần, tôi mơ thấy
rắn đè ngang cổ, quẫy đạp kêu gào tuyệt vọng. Cuối cùng bừng tỉnh. Hóa ra là
cái chăn khi đắp sơ ý để đè lên cổ... “Máu rắn” là một trường hợp kỳ dị, đọc đã
đủ sợ. Tôi không dám mơ lại, mơ thêm...
2.
Ngay từ đầu
với “Bóng đè”, Đỗ Hoàng Diệu đã lựa chọn một lối viết dụ ngôn. Sau này, với
“Lưng rồng”, bây giờ là “Máu rắn”, chị vẫn đi tiếp lối viết này theo cách phức
tạp hơn, bạo liệt hơn.
Ban đầu,
tác giả nhắm vào tục thờ cúng tổ tiên trong gia đình (mà gia đình chính là sự
thu lại, mở ra của làng/ nước). Sau đến là vật tổ (totem) rồng, sau nữa đến mẫu
gốc (achétype). Tác giả đối thoại. Giải ảo. Giải thiêng. Giải phẫu căn tính cá
nhân, cộng đồng...
Dụ ngôn là
một thủ pháp trong văn học, là cách “viết lại” các tích truyện trong tôn giáo,
trong huyền thoại linh thiêng của dân tộc, tộc người. Ở phương Tây, cách làm
này không có gì lạ. Ở Việt Nam, những năm trước 1975, các mẫu gốc được trưng dụng
trong các cái viết để thể hiện tư tưởng ý thức hệ. Sau 1975, nhất là sau 1986,
các mẫu gốc được tái sử dụng để thể hiện tinh thần nhân bản đa dạng và tối thượng
của con người, hoặc để phân tích căn tính người, căn tính cộng đồng. “Sự tích
những ngày đẹp trời” của Hòa Vang, “Bức thư gửi mẹ Âu Cơ” của Y Ban là hướng thứ
nhất. “Đất mồ côi” của Cổ Viên (Tạ Duy Anh), “Lưng rồng”, “Máu rắn” của Đỗ
Hoàng Diệu thuộc hướng thứ hai.
3.
Để nghệ
thuật hóa các dụ ngôn, mẫu gốc này, tác giả đã tiến hành giải trung tâm hóa
theo cách: phi cốt truyện, giải thực và giải ảo, đan trộn, chồng chất mộng mị, ảo
giác, bạo lực, tình dục, chết chóc, vụ án...
Với tiểu
thuyết “Máu rắn”, tràn ngập một thế giới rắn đủ loại, vừa thuộc thực tại, vừa
trong tâm thức, giấc mơ, thế giới ảo giác, hoang tưởng, tiềm thức, thuộc phả hệ
Âu Cơ – mẫu gốc, đàn bà, người nữ, người mẹ, mẫu tính... Phả hệ này ngụ ý về
phía kẻ bị trấn áp, nạn nhân, đồng thời cũng là một thế lực, tội nhân. Toàn bộ
các nhân vật người nữ trong “Máu rắn” chính là các phân mảnh phức tạp, lắm khi
khủng khiếp của/từ mẫu gốc này.
4.
Ở một cực
khác, cực dương, đàn ông, tập trung vào nhân vật giáo sư triết học – ý hệ, một
kẻ biểu trưng cho quyền lực, trấn áp, điều khiển, thiết lập và thao túng trật tự
hiện hành. Dường như tác giả có hàm ý đối thoại với một thứ mang tên “chủ ngĩa
duy dương vật” (phallocentrism) trên tinh thần nữ quyền chăng?
5.
Văn của Đỗ
Hoàng Diệu ngay từ đầu đã sắc sảo, thanh xuân, đàn bà, cuốn hút. Giờ đây cái sắc
sảo đã thêm phần sắc lạnh. Cái thanh xuân đàn bà đã có phần phôi pha, nhường chỗ
cho sự điềm tĩnh phân tích. Một trần thuật lý tính, sắc lạnh chính là kết quả của
tinh thần phân tích và tái trưng dụng dụ ngôn mà có được.
Đọc “Máu rắn”,
vừa bị cuốn theo vừa bị mỏi trí. Mệt mà vẫn bị cuốn theo...
Đỗ Hoàng
Diệu đã đứng riêng ra một lối đi, đặc sắc, lạ hoắc.
Tôi thấy
mình chưa đủ khả năng để triển khai thành một bài phê bình hoàn chỉnh. Trên đây
mới chỉ là mấy ghi chép nông cạn, với cái ý cảm ơn và chúc mừng nhà văn Đỗ
Hoàng Diệu về tiểu thuyết mới này!